Nhóm trí thức yêu nước Việt Nam trong và ngoài nước phối hợp thực hiện  

Thư tín :

Báo Tổ Quốc Lưu Trữ :

   01—50      51—100       101150    

 

 

ĐCS tự đứng trên dân tộc VN !

Bản Giốc là gốc Việt Nam

ĐCS dâng Tổ Quốc cho Trung Hoa !!!

 
   

Số 109

            Nguyễn Trường Tộ với những

         tiền đề dân chủ hóa Việt Nam

15 04 2011

 

 

 Nguyễn Thanh Giang

 

 

Nguyễn Trường Tộ - một người công giáo hết ḷng v́ đất nước - sinh năm 1830 tại làng Bùi Chu (nay thuộc xă Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An) và mất ngày 22 tháng 11 năm 1871 tại Xă Đoài (nay thuộc xă Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An). Ông giă biệt cuôc đời ngắn ngủi, 41 năm, trong ngậm ngùi ân hận:

Nhất thất túc, thành thiên cổ hận

Tái hồi đầu, thị bách niên cơ... ”

(Một kiếp sa chân, muôn kiếp hận

Ngoảnh đầu cơ nghiệp ấy trăm năm...)

Tuy nhiên, dẫu không để lại những thiên kinh vạn quyển, chỉ qua trên dưới 60 bản điều trần gửi nhà vua, hậu thế cũng đủ thấy một kho tri thức lớn hết sức đáng nể trọng. Học giả Lê Thước nh́n nhận: "Nguyễn Trường Tộ là nhà khoa học, nhà chính trị và cũng là nhà tân học nước ta xưa. Tư tưởng và kiến thức của tiên sinh hơn người đồng thời muôn ngh́n".

Sau những bài đăng về Nguyễn Trường Tộ đầu tiên trên Nam Phong năm 1925, hàng loạt công tŕnh nghiên cứu và bài viết đă vinh danh Nguyễn Trường Tộ là: “Nhà yêu nước sáng suốt nhất của thế kỷ XIX”, “Nhà cải cách lớn của dân tộc”, “Nhà phê b́nh xă hội đầu tiên ở nước ta”, “Bậc kỳ tài, có những tư tưởng tân tiến và một tấm ḷng sâu nặng v́ nước v́ dân”, “Nhà kiến trúc tư tưởng Việt Nam ở thế kỷ XIX”, “Một trí tuệ lớn mang tầm quốc tế”, “Nhà thiết kế vĩ đại của đất nước ở thế kỷ XIX ”…

Bài viết này đi sâu t́m hiểu những giá trị dân chủ h́nh thành qua các bản tấu tŕnh của Nguyễn Trường Tộ.

Công tŕnh khảo cứu lớn đầu tiên về Nguyễn Trường Tộ có lẽ là của Từ Ngọc Nguyễn Lân, nhan đề Nguyễn Trường Tộdo Viễn Đệ, Huế xuất bản năm 1941 và Mai Lĩnh, Hà Nội tái bản năm 1942. Nguyễn Lân khẳng định Nguyễn Trường Tộ là: “Người Việt Nam sáng suốt nhất trong thời kỳ lịch sử rối ren nhất trong lịch sử Việt Nam, một nhà đại học vấn, đại kiến thức, đại tư tưởng và đại nghị luận. Một người như thế đáng được cả quốc dân tôn sùng, tượng đồng bia đá kể c̣n ít.”

Đến năm 1961 th́ có cuốn “ Nguyễn Trường Tộ và những đề nghị cải cách của ông” của Chương Thâu và Đặng Huy Vận do Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội xuất bản.

Những tư liệu trích dẫn trong bài viết này của chúng tôi chủ yếu có được từ cuốn “Nguyễn Trường Tộ - Con người và di thảo” của Trương Bá Cẩn. Xin tri ân tác giả.

- 1 -

Ư tưởng nẩy sinh công tŕnh khảo luận về tư tưởng dân chủ trong Nguyễn Trường Tộ h́nh thành khi chúng tôi bắt gặp những ḍng sau đây trong cuốn sách trên: “Nếu dân biết bày rơ chân t́nh, quan thuận theo đó mà điều tiết th́ tự nhiên cao thấp, lớn nhỏ đều được công bằng thỏa nguyện. Như người thấp chẳng tranh lấy áo dài làm chi, mọi người đều giúp đỡ nhau xây dựng sự sống c̣n, không ai thái quá, không ai bất cập, cũng không c̣n tâm địa xấu xa phân biệt chia rẽ nữa (Đây là chuyện chắc chắn có thể làm và tất hữu trong đạo làm người chứ không phải như thuyết Tề vật hoang đường). Đây là một chân lư rất kỳ diệu, khẩn thiết đối với nhân loại. Chỉ v́ không rơ chân lư ấy mới có cảnh quân tử phạm lễ nghĩa, tiểu nhân phạm h́nh luật mà chẳng ai lấy làm lạ thản nhiên như không để đến nỗi cả nước mạnh hiếp yếu, thù nghịch mâu thuẫn nhau mà suốt đời chỉ t́m cách che đậy, dối trá chống lại bề trên. Dầu có người cao thượng, thấu đáo cũng bị vướng mắc tục làng mà không khỏi rơi vào tệ lậu ấy”   (1 )

Có thể xem đây là một luận điểm độc đáo của Nguyễn Trường Tộ: dân chủ và tự do ngôn luận là cứu cánh của công bằng xă hội.

 

Vấn đề công bằng vốn canh cánh trong ông. Ông quán triệt tư tưởng công bằng cả trong đường lối đối ngoại: “… lấy nhân nghĩa công bằng mà qua lại với các nước làm cho ḿnh và người cả hai đều được lợi, th́ mới đạt được sở nguyện. Đó là đường lối thông thường mà tất cả các nước trên thế giới hiện nay đều tiến hành như thế, tập tành ham chuộng đường lối ấy, t́m cách thực hành đường lối ấy, mấy trăm năm càng ra làm càng có lợi mà không ai nghỉ tay, cũng v́ bỏ đường lối này không c̣n phương sách nào khác” (2).

Ông tấu tŕnh nhà vua về thực trạng bất công trong thuế khóa: “Trong dân gian có nhiều tục lệ xấu. Như trong sổ bộ trên quan một cùng đinh phải đóng thuế bao nhiêu, th́ trong làng một tay đại phú cũng đóng chừng đó thuế, không bù sớt ít nhiều ǵ cho nhau cả. Như vậy là đă trái cái nghĩa xóm làng giúp đỡ lẫn nhau rồi…” (1)

Và đề nghị: “Nay xin chia những người giàu làm ba hạng, nhà hạng nhất đóng thuế mỗi năm một trăm quan, hạng nh́ 50 quan, hạng ba 20 quan (1).

Cho đến hôm nay ta vẫn c̣n lúng túng trong việc đánh thuế nhà, nhưng cách đây gần hai trăm năm Nguyễn Trường Tộ đă đề xuất việc đánh thuế nhà những người giàu: “Các nước phương Tây sở dĩ đủ dùng cho việc nước là nhờ đánh thuế nhà những người giàu có và các cơ sở thương mại, thế mà dân không oán than v́ đó là thứ thuế chính đáng. Nếu dân nghèo th́ chỉ bắt đóng góp một ít công tác thôi. Đối với dân họ tùy theo giàu nghèo mà đóng thuế nhiều hay ít, làm sao cho công việc nước được phân phối thích hợp với mọi người (1).

Ông chĩa mũi nhọn vào người giàu không v́ kỳ thị, trái lại ông đă phản bác tư tưởng yếm thế  “an bần lạc đạo” đang ngự trị trong lớp người hủ nho thời ấy (an tâm trước cảnh nghèo để vui với đạo). Khi tư bản Phương Tây tràn tới, ai cũng nḥm nhỏ thấy “Phi thương bất phú”, nhưng họ lại vơ đóan “vi phú bất nhân” (không buôn bán th́ không giàu. Nhưng đă làm giàu th́ không đạo đức). Nguyễn Trường Tộ phản bác: “… có đủ cơm ăn, áo mặc rồi mới nói đến chuyện vinh hay nhục mà muôn việc ở đời cơ bản là sự nuôi sống. Nếu không đủ nuôi sống, bản thân c̣n không bảo tồn được nói ǵ đến chuyện khác ngoài bản thân…Nếu bị cái nghèo đói thúc bách th́ lo kiếm sống cũng không xong c̣n đâu mà bàn lễ nghĩa (1), “Tôi thiết nghĩ, trong ngũ phúc, phú đứng đầu, triệu dân trước tiên lo ăn. Sách Luận ngữ nói, làm giàu có rồi mới giáo dục. Mọi việc trên đời hễ việc ǵ có công dụng lớn th́ rất khó làm. Công việc của con người không ǵ lớn hơn là làm ra của cải để nuôi sống (1). Phải chăng, đây chính là quan điềm triết học duy vật biện chứng. F. Engels từng viết: “Marx là người đầu tiên đă phát hiện ra quy luật phát triển của lịch sử loài người, nghĩa là t́m ra cái sự thật giản đơn, trước hết con người cần phải ăn uống, mặc trước khi có thể lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo .

Nguyễn Trường Tộ sinh cùng thời với K. Marx (kém Marx 3 tuổi). Rất có thể lúc ấy ông chưa có điều kiện đọc Marx. Nếu vậy tức là Việt Nam cũng từng xuất hiện đồng thời nhà triết học duy vật. Người nói: “Vi phú bất nhân”. Nguyễn Trường Tộ bảo: “Về tài lợi nếu như biết khéo thu nhập th́ được nhiều mà không ai oán trách thu nhập ấy, đó là nền tảng của nhân nghĩa”. (3)

Nhân nghhĩa ở chỗ, làm giàu là để giảm bớt gánh nặng thuế khóa cho dân: “Nay nói về việc nước, khi đă có đủ của cải rồi th́ lệnh trưng thu của cải trong dân chúng để cung ứng cho việc nước sẽ ngày càng giảm bớt mà sự nghiệp củng cố cho nước mạnh sẽ ngày càng tăng”. (3)

Làm giàu để nước giàu mà dân cũng giàu: “Cái tôi gọi là làm cho có nhiều của ở đây không có nghĩa là nói ḅn rút của dân để làm cho nước giàu, mà là nhân nguồn lợi tự nhiên của trời đất để sinh ra của cải. Do đó mà nước giàu mà dân cũng giàu”. (3) 

- 2 -

Nguyễn Trường Tộ hết sức chú ư đến việc thiết lập và giáo dục pháp luật. Trong lịch sử cận đại Việt Nam có lẽ ông là người cổ súy mạnh mẽ nhất cho luật pháp. Ông kỳ vọng khả năng bênh vực lẽ công bằng của luật pháp và cho rằng luật pháp là hiện thân của đạo đức: “Nếu tận dụng cái lẽ công bằng ở trong luật mà xử sự th́ mọi quyền, pháp đều là đạo đức. Có cái đức nào lớn hơn chí công vô tư không? Chí công vô tư là đức trời. Trong luật cái ǵ cũng công bằng hợp với đức trời, như vậy mà không đáng gọi là đạo đức tinh vi sao? Chỉ sợ con người không tận dụng luật mà thôi. Nếu tận dụng cũng đủ trọn vẹn đạo làm người rồi, bất tất phải đi t́m cái ǵ khác”. (1)

Bây giờ đọc những điều này thấy như là xưa cũ, như là đương nhiên lắm rồi. Thế mà, tôi nhớ, cho đến thập kỷ 60 của thế kỷ 20 mà báo Nhân Dân của ĐCSVN c̣n đăng bài của CB (tức Hồ chủ tịch) trong mục “Mỹ quốc là nước xấu” phàn nàn rằng nước Mỹ quá xấu v́ có quá nhiều đạo luật, tới tận trên ba vạn đạo luật. (Cả một giai đoạn lịch sử dài các nhà lănh đạo Cộng sản lấy chuyên chính vô sản thay cho pháp trị! Khốn khổ thay, măi cho đến bây giờ cái hơi hướng ấy vẫn c̣n ám ảnh, đầy đọa xă hội ta!)

Nguyễn Trường Tộ khẳng định luật pháp càng chặt chẽ, số điều luật càng nhiều, càng tỷ mỷ và cụ thể th́ con người càng được tự do, chứ không phải ngược lại: “Các nước phương Tây lập pháp rất chặt chẽ thế mà lại rộng răi. Bởi v́ tất cả đều có luật pháp không thể gian dối được, cho nên người ta không gian dối, cũng không có ư nghĩ muốn gian dối. Họ sống yên ổn trong luật pháp, không cảm thấy bị luật pháp ràng buộc, nên tựa hồ như luật pháp ấy rộng răi. C̣n ta cũng lập pháp mà không ngăn chặn nổi tệ đoan là v́ luật pháp nước ta chưa chặt chẽ, c̣n sơ hở để tệ đoan sinh ra. Họ cũng người, cũng nước, cũng dân, sao luật pháp thi hành được c̣n ta th́ không?” (1)

Hăy xem: “các nước Phương Tây chưa bao giờ có chuyện băi tô giảm thuế mà t́nh gắn bó giữa dân với nước thân thiết khác hẳn t́nh trạng nước ta biết mấy (Điều này tôi đă tŕnh bày trong tập “Ngôi vua là quư chức quan là trọng” ). Bởi v́ họ có thể theo đạo trời làm đúng lẽ tài bồi chở che, xử sự hợp lư. Cho nên luật pháp tuy nặng nề tựa hồ vô t́nh mà lại rất có t́nh (1).

Luật pháp dung hợp lư t́nh và ngăn trở t́nh trạng không thấu t́nh, cũng chẳng đạt lư: “Nay nếu Triều đ́nh không chỉnh đốn lại th́ kẻ sống trong pháp luật ít, kẻ ngoài pháp luật nhiều. Quan trên quư hồ nắm lư lại có nhiều tư vị nên không thể hết lư. Dưới dân quư hồ ở t́nh lại có nhiều gian dối không thể hết t́nh. T́nh lư không thông làm sao xây dựng đất nước tốt đẹp được? “ (1).

Nguyễn Trường Tộ đề nghị thành lập khoa luật để phổ cập giáo dục luật học: “Bất luận quan hay dân, mọi người đều phải học luật nước và những luật mới bổ sung thêm từ Gia Long đến nay. Ai giỏi luật sẽ được làm quan. V́ luật bao gồm cả kỷ cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia, trong đó tam cương ngũ thường cho đến việc hành chánh của 6 Bộ đều đầy đủ. Quan dùng luật để trị, dân theo luật mà giữ ǵn. Bất cứ một h́nh phạt nào trong nước đều không vượt ra ngoài luật” (1).

Cách đây gần hai thế kỷ mà tư tưởng pháp trị của Nguyễn Trường Tộ rơ ràng tiên tiến hơn chúng ta ngày nay: “Phàm những tội ngũ h́nh đều do các vị này xử. Vua cũng không được đoán phạt một người nào theo ư ḿnh mà không có chữ kư của các quan trong Bộ ấy. Làm thế là để cho dân chúng thấy rơ đạo công bằng. Vả lại vua không dự vào những việc ngũ h́nh để tỏ đạo nhân ái. Như chế độ xưa, vua có “tam hào” (3 lần tha). Bởi v́ nếu có tội phải giết th́ đó là quốc dân giết ” (1).

Cha ông đă dạy thế mà sao ngày nay, những vụ án liên can đến quan chức của Đảng, những vụ án chính trị, và ngay cả một số vụ án tập đoàn kinh tế lớn đều phải xử theo sự chỉ đạo của Đảng!

 
 
 

Điều dẫn tiếp sau đây c̣n làm ta sửng sốt hơn. Chỉ trong lĩnh vực luật pháp thôi, mà Nguyễn Trường Tộ đă chứng tỏ một tầm nh́n chiến lược, một sự cảnh giác quốc tế như của thần linh. Hăy nghe Người căn dặn: “Kẻ địch bên ngoài sắp muốn nô dịch dân ta, cướp bóc của cải của ta, tại sao không hỏi han nhắc nhở nhau t́m mưu lập kế để ngăn ngừa? Dân gian không biết luật lệ phạm nhiều sai lầm, sao không chỉ dạy rơ ràng để biết mà tránh? Tại sao không đem tâm lực ra mà lo những việc cần kíp trước mắt, lại đem dùng vào những chuyện xa xôi không thiết thực? Tôi sợ kẻ địch xung quanh đang bức bách ta ngày kia sẽ đem cái giáo hóa luật lệ của chúng đến sai khiến chúng ta. Chừng đó ăn năn sao  kịp! ” (1).

Nếu hiểu Nguyễn Trường Tộ, biết nghe Nguyễn Trường Tộ th́ đâu đến nỗi ngây ngô tuân lệnh chỉ giáo của kẻ ngoại bang Phương Bắc làm Cải cách Ruộng đất, đâu đến nỗi cuồng dại tiến hành Cải tạo Công Thương nghiệp…!

- 3 -

Tài chánh của Nhà nước phong kiến, thời Nguyễn Trường Tộ, chủ yếu nhờ vào thuế: thuế đinh và thuế điền. Ông “làm công tác tuyên giáo” cho nhà vua: “Nước sở dĩ đứng vững được là nhờ binh lương. Binh để giữ nước, lương để nuôi binh. Thế mà trong dân gian c̣n nhiều người chưa hiểu lư lẽ ấy. Nếu có của cải mà không có quan binh bảo vệ th́ quân giặc, kẻ trộm hoành hành, thân c̣n không giữ được, giữ sao được của cải. Dân đă không thể một ḿnh bảo vệ được thân mạng, nhà cửa, của cải, th́ bỏ ra một ít lương thuế nhờ lực lượng quốc gia bảo vệ sự nghiệp to lớn lâu dài của ḿnh cho”. (1)

Song, nói cái nghĩa vụ của dân, ông cũng đồng thời đ̣i hỏi cái bổn phận của quan. Ông phàn nàn với vua: “Thế mà các quan ở phủ huyện th́ nhàn rỗi đàn ca xướng vịnh. Hễ đi đâu th́ tờ trát đi trước bắt dân chầu chực nghinh đón. Như thế th́ làm sao đi vào trong dân gian t́m hiểu những u uẩn của họ được? Làm quan có đức độ biết khéo léo giáo hóa dân chúng là phải đi tuần hành trong dân gian nhưng giản dị dễ dàng cho dân. Đây mới là điều phải bắt chước người xưa vậy. C̣n quan viên ta ngày nay ngồi giữa công đường ngoài cái án thư bàn độc ra không c̣n biết việc ǵ khác. Những công việc trong hạt như phong tục dân gian tốt xấu thế nào, đất đai hoang phế ra sao, lúa thóc phải tính trừ như thế nào, rừng rú ao đầm cần phải giới hạn đến đâu tất cả đều phó mặc cho mây trôi nước chảy không cần biết đến”. (1)

 

Một mặt lên án t́nh trạng quan liêu, một mặt tố cáo sự bất công, gian lận trong thuế khóa: “Có nhiều nơi ruộng cao có thuế lại mất mùa không thu được ǵ cả, c̣n ruộng thấp không có thuế th́ lại được mùa, thế mà chẳng bù sớt cho nhau tư nào …  Lại có những bọn lư dịch lấy ruộng của dân tráo chỗ nọ đổi chỗ kia, để thu thuế của dân th́ nhiều mà nộp lên quan th́ ít ... Như vậy là quá nửa số thuế lọt vào túi bọn lư dịch chẳng khác nào chúng có đất phong hầu để ăn lộc vậy. Lại có làng ở ven sông đất bị sông xói lở không cày cấy được, hoặc có nơi vốn đất bỏ hoang không khai khẩn được, thế mà vẫn bị bọn lư dịch chiếu lệ tăng thuế. Lại có nhiều ruộng lậu thuế không khám phá ra được bởi tài đắp vá quỷ quyệt của bọn lư dịch. Như vậy trong dân gian, kẻ giàu th́ giàu thêm, người nghèo càng nghèo mạt...”.(1).

Tham nhũng ngày nay tràn lan hơn, tinh vi hơn, to lớn hơn nhưng cơ lẽ chưa bị ta lên án gay gắt bằng Nguyễn Trường Tộ khi ông gọi đấy là “ḅn rút mỡ dân, đục khoét tủy nước ”: “…  ngoài các tỉnh th́ quan tham lại nhũng xưng hùng xưng bá, tác phúc tác oai, áp bức tàn nhẫn kẻ cô thế, ḅn rút mỡ dân, đục khoét tủy nước, việc đó đă xảy ra từ lâu rồi.” (4)

Nhưng, rất độc đáo, Nguyễn Trường Tộ đề nghị phải chống tham nhũng bằng cách …. tăng lương cho các quan. Ông chỉ rơ sự bất hợp lư trong chế độ lương bổng của nước ḿnh:      “ Tôi thấy lương bổng một năm, tính hết tất cả các khoản của một Lục bộ đại thần nước ta không bằng hai ngày rưỡi lương của một nguyên soái nước Pháp. Một ngày lương của một Tổng đốc nước Anh tương đương một năm lương của một quan đại thần nước ta. V́ vậy người phương Tây có nói: “ Các quan lại nước Nam trừ những người quá tham ô không nói c̣n bao nhiêu những người khác thường thường sau khi xong công việc họ nhận lănh của biếu xén, tạ ơn, điều đó cũng không đáng trách”. Bởi v́ có đủ cơm ăn áo mặc rồi mới nói đến chuyện vinh hay nhục, mà muôn việc ở đời cơ bản là sự nuôi sống. Nếu không đủ nuôi sống, bản thân c̣n không bảo tồn được nói ǵ đến chuyện khác ngoài bản thân. Các nước ngoài nghe quan lại nước ta lương bổng ít ỏi như vậy họ rất chê cười và tựa hồ họ không thể hiểu nổi tại sao lại có thể như thế được.” (1)

Thế rồi, để có ngân khoản tăng lương cho các quan, ông đề nghị cần sáp nhập một số tỉnh, huyện để giảm biên chế nhà nước với lập luận rằng: “Đem công việc một tỉnh lớn ra mà nói th́ cũng binh, lương, thuế khóa, các ban công vụ có khác nào một tỉnh nhỏ đâu, không thêm bớt một việc ǵ cả. Một tờ công văn cũng có thể đi châu lưu khắp nước, kể ǵ một tỉnh. Hăy xem tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có thể lớn bằng một lần rưỡi nước ta. Hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây hợp lại có thể gấp đôi nước ta. Một huyện của Trung Quốc có thể tương đương một tỉnh của ta. Trên thế giới có nhiều nước phân chia tỉnh huyện c̣n lớn hơn cả Trung Quốc nữa”. (1)

Kiến nghị vừa cụ thể vừa có lư có t́nh: “Vậy xin gấp rút xét xem địa thế, hợp hai ba tỉnh thành một tỉnh, hoặc ba bốn huyện làm một huyện, lấy số lương dư ra cấp thêm cho các quan hiện chức. Họ đă được cấp lương tiền đầy đủ, để giúp họ giữ được thanh liêm, bấy giờ nếu họ không thanh liêm th́ mới có thể trách. Tôi tính lương tri huyện mỗi ngày không quá ba, bốn mạch như vậy nuôi một người c̣n không đủ huống chi nuôi một gia đ́nh nhà quan. Đă biết rơ thiếu hụt mà cứ đem lời nói suông khuyên người ta thanh liêm, như thế là ngầm để cho người ta tham nhũng. Chẳng nghe dân gian có câu: “Chê cười mắng nhiếc mặc họ, quan ta tốt thế đấy” hay sao? Trừ những vị có đức hạnh khác thường th́ không kể ǵ đến chức tước bổng lộc. C̣n thường t́nh mà nói bất cứ ai tự hỏi ḷng ḿnh rồi cũng sẽ tha thứ đối với bạn đồng liêu cùng cảnh ngộ”. (1)

Chăm lo đến đời sống của quan ngay cả khi bàn biện pháp chống tham nhũng nhưng tư tưởng v́ dân của Nguyễn Trường Tộ vẫn là thống soái. Lời tấu trong bản “Tu vơ bị” thật thấm thía; vừa tố cáo, vừa cảnh cáo: “Đạo dùng binh trước hết phải làm cho giàu có của cải sau mới dùng đến sức lực. Các nước dùng quan để nuôi dưỡng binh lính, c̣n ta th́ dùng binh lính nuôi dưỡng quan. Quan cũng như ruột rà, binh lính như tay chân. Tay chân khỏe mạnh mới bảo vệ được ruột rà. Nay cắt tay chặt chân để nuôi dưỡng ruột rà th́ liệu ruột rà có thể tự đi đứng được không? Lúc b́nh thường ăn ở với nhau th́ ban ơn bằng roi vọt, nuôi dưỡng bằng khổ nhục, đến khi lâm trận th́ bảo nhảy vào nước lửa để bảo vệ che chở cho ḿnh. Thử hỏi có tên lính nào không phải là người hay sao mà phản tính tự nhiên chịu làm như vậy được?” (5).

 

- 4 -

Trên kia đă có lúc nói đến tư tưởng duy vật; tinh thần biện chứng và sự nh́n nhận đa nguyên rất chí lư của triết gia Nguyễn Trường Tộ c̣n đáng trân trọng hơn nữa: 

Trời đất sinh ra muôn vật không chỉ sinh một khuôn mẫu nào, không thiên một bên nào, một chức phận nào hay một vật nào mà sinh ra vô số h́nh thù khác nhau, xu hướng khác nhau để thu phục thống trị chúng, do đó mới thấy được cái phong phú vĩ đại tinh xảo kỳ diệu của trời đất ”. (6).

“Phàm có vạn thứ không giống nhau th́ gọi là giàu, không cái ǵ không chứa đựng được hết gọi là lớn, chồng chất thành đống nhiều lớp mà không chống chọi nhau gọi là khéo, nhiều thế lực khác nhau, nhiều tính t́nh khác nhau mà hợp được làm một để sử dụng gọi là giỏi. Cho nên tạo vật nặn đúc ra không đồng một h́nh dạng, một khuôn khổ, một ngôi vị, một xứ sở mà sinh ra vô số h́nh thái khác nhau, phương hướng khác nhau để nhiếp trị. Thế mới thấy được cái giàu lớn khéo giỏi của tạo vật. Sở dĩ thượng đế chế trị đại địa cũng như con người ta lập các tôn giáo riêng, không bắt ép cái này phải nhập vào cái kia là v́ có thâm ư trong đó” (7).

“Trộm nghĩ rằng cái đức lớn của trời đất là sự sống. Sống là ǵ? Là làm cho muôn vật đều được bảo toàn thiên tính của nó. V́ vậy mà trên trời có sao sáng mây đẹp th́ cũng có gió lớn mưa to; dưới đất có lúa tươi thóc tốt th́ cũng có cỏ xấu sâu độc. Tuy tốt xấu khác nhau nhưng đều được sinh nở không cái nào bị hại. Như vậy mới sáng tỏ cái đại toàn của trời đất. Chứ cái ǵ đẹp th́ tô bồi, cái ǵ xấu th́ dẹp bỏ, cái ǵ hay th́ che chở, cái ǵ dở th́ hủy hoại th́ không làm sao thấy được cái vĩ đại, cái kỳ diệu của tạo vật. V́ sao lại nói như vậy? Bởi v́ nếu trên đời này có ngọt mà không có đắng, người ta sẽ không biết vị ngọt là đáng yêu; có ấm mà không có lạnh, người ta sẽ không biết được cái thích thú của sự ấm áp; có trắng mà không có đen, trắng không thể tự một ḿnh phô bày cái đẹp được; có hoa mà không có gai, hoa cũng không thể một ḿnh tốt tươi được. Cho nên trời đất không v́ tốt xấu mà phân biệt mưa sương, không v́ văn minh dă man mà phân biệt sự che chở. Muôn vật sống chung đụng với nhau nhưng mỗi vật đều thuận theo tính của nó, hợp với cái dụng của nó, theo đường hướng của nó, đều tự thích nghi, thành hoại thông với nhau, tán mạn đặc thù đều qui về một mối, không bỏ một vật nào cũng không riêng tác thành cho một vật nào cả. Sở dĩ trời đất vĩ đại là v́ thế. Tại sao riêng loài người lại không như thế? (7)

 “Mọi vật sinh ra trên đời, vật ǵ cũng có phần thụ hưởng và phần cống hiến của nó. Chưa từng có một vật nào tồn tại một ḿnh không có quan hệ dính dáng vào đâu cả”. (1)

“Các nước khác nhau rất xa về ngôn ngữ, phong tục và sự ưa chuộng, nhưng thượng đế cũng lấy một lẽ mà đối chung cả vạn vật khiến tất cả đều thuận theo trật tự, đều thỏa ư nguyện, không bắt tất cả phải giống hệt nhau. Có thế mới sáng tỏ cái tài năng lớn, cái uy quyền trọng và cái độ lượng rộng răi ”. (4 )

Những triết luận trên cho thấy Nguyễn Trường Tộ nhân bản hơn, bao dung hơn, bác ái hơn Karl Marx nhiều. Nếu Trần Phú lĩnh hội tư tưởng này chứ không phải là của kẻ ngoại bang bên trời Tây kia th́ đâu đến nỗi chủ trương quá chừng tàn bạo, phản động: “Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Sau này Polpot Yangxary cũng đă v́ ăn phải cái bả ông Tây đó mà suưt hủy diệt cả dân tộc ḿnh!

Quán triệt thực tiễn đa nguyên, với tư duy biện chứng, Nguyễn Trường Tộ nh́n nhận tính thống nhất trong đối lập: “Tôi trộm nghe rằng: Có thông hiểu t́nh h́nh thiên hạ, mới làm thành việc trong thiên hạ. Thông hiểu là thế nào? Nghĩa là đem tính t́nh của ḿnh mà suy ra tính t́nh của người tức là biết được thiên hạ. Trong thiên hạ tuy ngôn ngữ phong tục khác nhau nhưng ai cũng đều có tính chất như nhau. Như vậy chỉ cần suy bụng ta ra bụng người th́ có thể biết Đông Tây bốn biển đều như thế cả. Thế giới năm châu đều có tính chất như nhau”. (6)

Xin được kể lại chuyện sau đây để thấy tư duy Nguyễn Trường Tộ không chỉ tiên tiến so với người đương thời, mà ngay cả với mấy vị “vua” ngày nay:

Cho đến năm 1998, khi xuất hiện bản tiểu luận “ Nhân quyền – Khát vọng ngàn đời ” của tôi – bài viết công khai đầu tiên ở trong nước xác định tính phổ quát của Nhân quyền và khẳng định “Nhân quyền cao hơn chủ quyền”  -  th́ một sỹ quan cao cấp ngành công an đă đến nhà khuyên tôi nên thận trọng. Anh ta thông báo cho tôi: “Tổng Bí thư Đỗ Mười nổi cơn thịnh nộ, đă ra lệnh bắt giam anh ngay, nhưng bọn tôi xin hoăn để anh ở nhà ăn Tết đă” (Viên sỹ quan này vốn là học tṛ của tôi. Tuy vậy tháng 3 năm 1999 tôi vẫn bị tống giam thật).

Và, đây nữa, Nguyễn Trường Tộ chí lư biết bao: “… có muôn thứ bất đồng mới gọi là phong phú, không ǵ không thâu chứa hết mới gọi là vĩ đại, quy tụ chất chứa nhiều thứ mà không trái chống nhau mới gọi là tinh xảo, nhiều thế lực khác nhau mà tập hợp được thành một công dụng mới gọi là kỳ diệu”. (7)

Vâng, đúng vậy. Đây không phải luận điệu “diễn biến ḥa b́nh” mà là thánh ư của cha  ông ta. Rơ ràng Người dạy: có đa nguyên đa đảng th́ đất nước mới trở nên “vĩ đại”, “tinh xảo”, “kỳ diệu” được.

Chắc chắn không phải như lời ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Việt Nam chưa cần đa nguyên đa đảng ”. Càng hoàn toàn không phải như ông tân trưởng ban Tuyên Giáo TW Đảng Đinh Thế Huynh: “Việt Nam không cần đa nguyên đa đảng!”

- 5 -

Trên cơ sở coi trọng sự bất đồng, Nguyễn Trường Tộ rất khuyến khích tự do ngôn luận.

Một mặt, ông yêu cầu nhà nước: "Điều thẳng lẽ cong đều công bố cho thiên hạ, việc sai đúng phải cho mọi người bàn luận, không dám tự ḿnh che dấu bào chữa cho cái xấu”. (8)

Mặt khác: “Nay xin Triều đ́nh đặt ra nhiều đề mục giao về cho các quan địa phương truyền hỏi bất kỳ người nào, bất luận lương hay giáo, ai t́m được thực lư, thực sự th́ theo đầu đề viết thành bài nạp lên. Hàng tháng các quyển ấy được đưa về Kinh một lần để khảo duyệt. Bất kỳ quyển nào giúp ích cho việc cần gấp th́ được ban thưởng và khuyến khích, rồi sức cho người ấy y theo quyển mà thi hành. Nếu việc làm phù hợp với lời nói và có ích cho việc công của nước nhà th́ chiếu theo khoa mà bổ dụng. Nếu như có ích cho việc tư trong dân gian th́ được cấp bằng để tự chế tạo ra mà phát hành. Nếu như quan địa phương có ư kỳ thị người nào mà giấu bài đi thi th́ người ấy được phép lên tận Kinh tố cáo”. (8)

: “Xin cho các trường quốc học, tỉnh học, các trường tư và các bài thi Hương thi Hội đều chú trọng vào t́nh h́nh hiện tại, như luật lịch, binh quyền, các chính sự về công h́nh lại lễ, tất cả đều được nói thẳng, không giấu giếm, có cái ǵ tệ hại, có cái ǵ hay ho, cái ǵ nên để lại, cái ǵ cần thay đi, những cái cần thiết trước mắt, những cái có thể phân tích tỉ mỉ xác đúng hợp thời, th́ được coi là trúng cách, c̣n những chuyện cũ th́ chỉ là thứ yếu”. (8)

Không chỉ xin cho dân được tự do ngôn luận, Nguyễn Trường Tộ c̣n xin được mở kinh tế thị trường: “Xin cho những nhà buôn trong dân gian biết góp vốn lập hăng buôn mà tiền vốn đến 100 vạn, hiện có xác thực th́ ban thưởng cho họ. Do góp vốn hay là vốn riêng của một nhà đóng được thuyền lớn hay là mua được thuyền th́ bất luận kiểu loại ǵ mà có thể đi sang Đại Thanh hoặc ra nước ngoài buôn bán cũng ban thưởng cho họ ”.(9)

Xin mở kinh tế thị trường, lại xin thiết lập xă hội dân sự: “Xin cho trong dân gian những ai lập các hội cứu tế như các loại hội cứu hỏa, hội bảo hiểm thuyền buôn, hội khơi cảng thu thuế, hội thay nhà nước sửa chữa xây dựng cầu cống đường sá nhà cửa, hoặc xuất tiền cho nhà nước vay để hàng năm lấy lợi, hoặc quyên tiền cho nhà nước để lập ra các nhà nuôi trẻ mồ côi, nuôi người nghèo khổ bệnh tật, và tự nguyện đứng ra quản lư những      việc ấy, hoặc khi nhà nước có việc khẩn cấp có thể cho vay tiền từ một vạn trở lên, đều xét theo công lao sự việc lớn nhỏ mà phân biệt ban tước phẩm, hoặc tặng cờ biển để khen  ngợi ”. (9)

Tư tưởng duy vật và biện chứng giúp Nguyễn Trường Tộ cho rằng muôn vật là đa đoan nhưng khả tri chứ không phải bất khả tri. Ông viết: “Phàm nhà khoa học th́ bụng phải bao hết những việc xưa nay, mắt trông khắp trời đất, tinh thần chu du tận cơi xa xăm, tâm hồn thấu đến chỗ u huyền. Như vậy mới sáng suốt mà tâm đắc được những ǵ người xưa không thể nói hết, mắt trông thấy hiện tượng mà tâm trí bao trùm sự hiểu biết ngoài hiện tượng đó. Bởi v́ trời tuy cao, đất tuy xa nhưng đều có sự thực chứ không ch́m vào hư vô…Tuy nói sự thực nhưng nó cao dày, thâm thuư vô cùng, thấy như gần nhưng thực là xa, thấy như nhỏ mà thực là lớn, thấy như tĩnh mà thực sự là động, thấy như nghịch mà thực sự là thuận, thấy như không có nguyên tắc mà thực sự là có nguyên tắc, thấy như trừu tượng mà thực sự là cụ thể”.  (4)

Tuy nhiên, nh́n vào thực trạng học vấn nước nhà, ông không khỏi băn khoăn: “ Ngày nay chúng ta, lúc nhỏ th́ học văn, từ, thơ phú, lớn lên ra làm th́ lại luật, lịch, binh, h́nh. Lúc nhỏ nào học Sơn Đông, Sơn Tây mắt chưa từng thấy, lớn lên ra làm th́ đến Nam Kỳ, Bắc Kỳ. Lúc nhỏ học nào thiên văn, địa lư, chính sự, phong tục tận bên Tàu (mà nay họ đă sửa đổi khác hết rồi), lớn lên ra làm th́ dùng đến địa lư, thiên văn, chính sự, phong tục của nước Nam, hoàn toàn khác hẳn. Lúc nhỏ học những lễ nhạc, cách ăn uống, cư xử chiến đấu, doanh trại từ xa xưa của Tàu, lớn lên ra làm th́ phải dùng lễ nhạc, cách chiến đấu, phép ăn ở theo quan dân nước ta ngày nay. C̣n biết bao nhiêu những việc tương tự như thế, ṃn bút khô môi cũng không kể hết. Xưa nay các nước trên thế giới chưa từng nước nào có nền học thuật như vậy. Quả thật lạ đời! Tuy Nhật Bản, Cao Ly cũng đọc sách Tàu nhưng chỉ để làm vui (9). “Ngày nay, cái mà nước ḿnh quư trọng là Nho. Mà Nho th́ quư trọng ở nhiều văn chương, chữ nghĩa. Nếu như lấy cái công phu bền bỉ dùi mài chữ nghĩa văn chương mà học lấy cái phong phú vô vàn của tạo vật th́ sẽ được biết bao điều quư báu”. (9)

Ông nhận xét: “Trừ Trung Quốc, Nhật Bản, Cao Ly và nước ta ra không có nước nào lấy văn chương để chọn nhân tài. Đó cũng v́ thơ phú không đuổi được giặc, ngh́n lời không được một kế sách, cho nên thay đổi đi mà lấy những điều tạo hóa hành sự làm cái học thực dụng, v́ tạo vật là bậc thầy vĩ đại của muôn dân”. (9)

Ông yêu cầu học phải “là học những ǵ chưa biết để biết mà đem ra thực hành. Thực hành những ǵ? Thực hành ở đâu? Đó là thực hành những ǵ thực tế trước mắt và c̣n để lại lợi ích cho đời sau nữa”. (1)

Cho nên trong bản điều trần “Về việc học thực dụng”, các môn học ông đề nghị mở thêm hàng đầu là: “sơn lợi”: t́m kiếm khóang sản, “địa lợi”: khai khẩn và bón đất, “thủy lợi”: tưới tiêu, chống úng chống hạn ….

Ông càng day dứt trước việc dạy sử và học sử của ta: “Nước ta có những vị danh thần trong các triều vua trước c̣n để lại danh thơm tiếng tốt, cũng như các danh thần và các quan chức trong Triều đ́nh hiện nay mà việc làm của họ có thể làm khuôn phép cho đời, tại sao không đem ra truyền tụng cho mọi người được hứng khởi... mà cứ ngày đêm luôn miệng kêu réo những người từ bên Tàu, chết đă mấy ngàn năm, như Tiêu Hà, Hàn Tín! Phải chăng chúng ta ngày nay c̣n mang ơn họ? Phải chăng người thời nay không b́ kịp người thời xưa? Hay muốn kêu cho họ sống lại? Như vậy mà cứ học cho đến bạc tóc, thật là quái gở không thể nào hiểu nổi! (9)

Phải học sử kư của ta, phải học địa lư của ta: “Nước ta trên cũng có trời che, tức thiên văn, dưới cũng có đất chở, tức địa lư. Trong khoảng trời đất, nước ta cũng là một đất nước tốt lành hẳn hoi, đâu phải một miền phụ dung của Tàu”. (9)

Phải bỏ lối học tầm chương trích cú của bọn hủ Nho để nh́n thẳng vào thực tế, dứt bỏ quá khứ sai lầm, kiên quyết cách mạng tư duy: “Phàm kẻ có trí trong thiên hạ là người không phải không có lầm lạc ban đầu, mà là người biết thay đổi hành động, không phải không có sai lạc, nhưng biết sửa điều sai thành đúng đắn, không xấu hổ v́ phải sửa đổi cái cũ, mà xấu hổ v́ không làm được điều ǵ mới, không nh́n lui dĩ văng, mà chuyên mưu việc tương lai, không nghĩ đến bảo toàn tên tuổi riêng ḿnh, mà lo ích lợi chung cho đất nước. Thế mới gọi là trí. Nếu sợ rằng trước kia chủ trương sai lầm mà nay phải sửa đổi công việc th́ sẽ bị người chê cười nên xấu hổ không làm, thế là không biết chính v́ không chịu thay đổi chủ trương mới phải măi măi cam chịu sai lầm”. (1) 

Thử hỏi Nguyễn Trường Tộ đang nói với vua quan đương thời hay với chính các nhà lănh đạo nước ta ngày nay? Chủ nghĩa Mác (của một ông Tây sốc nổi 30 tuổi) hết đẩy dân tộc đến chỗ tự tàn sát nhau hàng vạn người để đấu tranh giai cấp; lại xua nhau đi làm gă Đôngkisôt phất cờ hy sinh mấy triệu người “v́ ba ngàn triệu trên đời”! (thơ Tố Hữu); chủ nghĩa xă hội đẩy đất nước xuống hố cả nút v́ đói nghèo đằng đẵng … Thế mà sao măi vẫn cứ phải tôn thờ nó. Sao chân đă phải rẽ bước đi làm kinh tế thị trường mà cổ cứ phải bẻ quặt lại định hướng xă hội chủ nghĩa!?

- 6 -

Cuối thế kỷ 18, bị truy kích, mặc dù cầu viện được vua Xiêm cấp cho năm vạn binh lính và 300 chiến thuyền, Nguyễn Ánh vẫn bị quân Tây Sơn đánh bật ra đảo Phú Quốc. Nhờ dựa vào thế lực của Pháp, tháng 5 năm 1802 Nguyễn Ánh mới giành lại được ngôi vua. Tiếp sau là Minh Mạng, Thiệu Trị. Tự Đức lên ngôi năm 1847. Năm 1858, Pháp đánh Đà Nẵng. Năm 1859, Pháp bỏ Đà Nẵng vào đánh Gia Định. Năm 1862, Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam bộ, Năm 1867, Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam bộ. Trong bản điều trần “Canh tân và mở rộng quan hệ ngoại giao” Nguyễn Trường Tộ đă khuyến cáo: “ Nay việc khẩn cấp nhất của ta là trước hết phải giữ cho được cái ǵ chưa mất, c̣n việc mưu thu hồi 6 tỉnh là việc sau. Muốn giữ cái chưa mất, th́ phải gấp rút thừa cơ, mà canh tân chính là căn bản để mưu thu hồi và giữ ǵn. Nếu không canh tân để tiến bộ, th́ dù có tạm thu hồi được, vá hôm nay mai lại rách, rốt cuộc cũng không thể không có chuyện xảy ra. Nếu nhất luật canh tân để tiến bộ th́ việc giữ không khó, mà việc mưu thu hồi không chóng th́ chày cũng có thể hy vọng được”. (10)

Ông khuyên nhà vua tạm thời ḥa hoăn với Pháp, mở rộng quan hệ đối ngoại theo gương các lân bang: “Lại xem Nhật Bản xưa vốn là lũ người lùn, từ trung diệp nhà Minh mới bắt đầu giao hảo với Hà Lan, làm bạn với Bồ Đào Nha, kế đến mời Hợp Chúng Quốc giúp vào việc nước, mở mắt nh́n rộng răi thiên hạ mới có chí hướng lớn như vậy. Từ đó họ đóng tàu bè, luyện tập vơ bị, ưu tiên phát triển thương nghiệp, công nghiệp, đất nước mỗi ngày một mạnh, được khen với mỹ danh là Tiểu Tây và Trung Quốc khó bắt được Nhật Bản phải thần phục. Tuy gần đây Anh, Pháp thường hay quấy nhiễu nhưng nhờ có nền nội trị ngoại giao vững vàng mà họ không chịu hạ ḿnh. Như trước đây ba năm Anh, Pháp đem binh thuyền đến toan đàn áp, nhưng nhờ có Hợp Chúng Quốc, Hà Lan phân giải mà việc đă không xảy ra. Đó không phải là công dụng của sự giúp đỡ của các nước hay sao? C̣n như ngày nay nước ấy có những kế hoạch giao thiệp rộng răi, những mưu cơ tân tiến th́ đâu đâu người ta cũng đă nghe thấy rơ ràng, gương ấy không xa, không cần phải nêu ra nữa”. (10)

Tiếc rằng khi Minh Mạng lên ngôi, về đối ngoại, nhà Nguyễn đă thực hiện chính sách "Bế quan tỏa cảng" c̣n nặng nề, cứng rắn hơn các triều đại trước. Về đối nội, ban hành “Dụ cấm Đạo” (năm 1825) và "Chiếu chỉ sát đạo" (năm 1833).

Bằng những lời thuyết giáo vắt từ trong tim, Nguyễn Trường Tộ đă ra sức can ngăn triều đ́nh, thiết tha kêu gọi ḥa hợp, ḥa giải dân tộc: “Giáo dân cũng là người trong nước, đều là người cả, cũng là dân của trời, sự ăn ở có liên quan nhau, vui buồn liên quan nhau. Lẽ nào bên này động mà bên kia lại yên được sao? Một nước ví như một thân thể. Một chỗ bị đau th́ toàn thân cũng không yên. Một cục thịt thừa, một ngón tay đeo thật hết sức vô dụng thế mà cắt bỏ đi th́ đau, huống chi là tay chân hữu dụng! Trời đất đối với các hành tinh, một nước đối với dân chúng, sự liên quan lệ thuộc duy tŕ cũng một lẽ như nhau. Nếu trên trời có một hành tinh bị động, các hành tinh khác cũng nhân đó mà có chút biến đổi, huống chi dân là gốc của một nước, dân bị tao động lẽ nào nước không sinh họa loạn?… Không thấy thượng đế là chúa tể cai trị các nước cũng như vua là chúa tể trị v́ một nước đó sao? Trong một nước, tuy nhân dân có phân chia nhà cửa khác nhau, nhưng vua cũng chỉ lấy một quyền mà thống trị dân chúng, lấy một trí mà liên kết muôn dân, khiến dân t́nh đều được yên ổn, hành động tuy khác nhau nhưng đều lương thiện, chí hướng khác nhau nhưng đều đáng quư cả. Như thế th́ chẳng những không tổn hại về mặt chính trị mà c̣n cho thấy cái tài khéo trong việc trị nước nữa”.  (7)

“Xét ra đạo Công giáo vào nước ta từ thời Lê. Trước tiên các giáo sĩ Bồ Đào Nha đến giảng đạo ở tỉnh Hưng Yên, tiếp đến có các giáo sĩ người Pháp, người Y Pha Nho đến, được nhiều người tin theo. Lúc bấy giờ giáo dân và những người trong ba đạo (Phật, Lăo, Khổng) tuy tín ngưỡng khác nhau nhưng vẫn ân ái tiếp đón nhau, lễ nghĩa đối đăi nhau, năng lui tới với nhau không có ǵ hiềm nghi, đều là con dân của nước nhà mà thôi. Từ khi ban hành lệnh nghiêm cấm th́ mới sinh ra ghen ghét kỳ thị nhau, do ghen ghét kỳ thị nhau mới sinh ra tội lệ. Từ đấy giáo dân bị phiền nhiễu đến nỗi phải lưu ly thất sở mà mắc vào ṿng h́nh phạt. Nước vốn trong, có quấy lên mới bị đục, nếu ngừng th́ chốc lát sẽ trong trở lại”. (7)

Những lời da diết ấy sao như vẫn c̣n như đang phải tấu lên sôi bỏng trong hiện trạng nước ta hiện nay. Phải thấy rằng: “ Giáo dân cũng do tạo vật sinh dưỡng và đạo giáo cũng do tạo vật bảo dưỡng huống chi giáo dân cũng là một thành phần của nhân dân trong nước. Trong số đó, nếu có kẻ bội nghịch chẳng qua chỉ là một phần ngh́n, phần trăm mà thôi… Bất kỳ trong đạo giáo nào, hễ ai phản nghịch loạn thường đều là người đắc tội trong tôn giáo,  cứ áp dụng h́nh phạt không tha để cho tôn giáo được trong sạch. C̣n ai yên phận tuân theo pháp luật th́ để cho họ tự nhiên, có ǵ hại đâu? Đồng hành mà không nghịch nhau là được ”. (7)

*

Nh́n nhận lại Nguyễn Trường Tộ, những nghiên cứu, đánh giá của hậu thế đều thán phục trí tuệ và tâm huyết của một trong những v́ sao Khuê vằng vặc trong lịch sử dân tộc. Tuy nhiên hầu hết tiếc nuối ông đă không thành công và so sánh ông kém hơn Fukuzawa Yukichi – một nhà cải cách đồng thời đại ở Nhật Bản.

Một số cho rằng Fukuzawa thành công v́ đă biết “làm cách mạng từ dưới lên” trong khi Nguyễn Trường Tộ làm ngược lại. Đây là một đề tài lớn cần mở những cuộc hội thảo khoa học nghiêm túc nhằm soi rọi cho công cuộc đấu tranh dân chủ hóa đất nước hiện nay. Người viết bài này hy vọng sẽ có dịp được tham gia.

Điều cần suy xét là, điều kiện xă hội và hoàn cảnh bản thân của Nguyễn Trường Tộ và Fukuzawa rất khác nhau. Trong khi “Nhật Bản xưa vốn là lũ người lùn, từ trung diệp nhà Minh mới bắt đầu giao hảo với Hà Lan, làm bạn với Bồ Đào Nha, kế đến mời Hợp Chúng Quốc giúp vào việc nước, mở mắt nh́n rộng răi thiên hạ mới có chí hướng lớn như vậy. Từ đó họ đóng tàu bè, luyện tập vơ bị, ưu tiên phát triển thương nghiệp, công nghiệp, đất nước mỗi ngày một mạnh, được khen với mỹ danh là Tiểu Tây và Trung Quốc khó bắt được Nhật Bản phải thần phục” (10), th́ vua quan nhà Nguyễn chỉ loay hoay chống Pháp và chốt chặt cửa đất nước. So với mấy đời vua trước, Tự Đức được xem là sáng suốt hơn đôi phần. Từ đầu năm 1866, thấy như nhà vua bắt đầu để ư đến Nguyễn Trường Tộ, giao cho Nguyễn Trường Tộ đi t́m mỏ than, rồi lại sai Nguyễn Trường Tộ cùng với Giám mục Gauthier đi Pháp thuê thầy và mua sắm dụng cụ về định mở trường kỹ thuật theo phương pháp Tây phương. Nhưng, do phản ứng của giới sĩ phu cổ hủ, nhà vua lại chùn bước. Họ sợ ảnh hưởng của Tây phương và kỳ thị công giáo! 

Giữa đám quần thần yêu nước kiểu vơ biền (giống một số nhà cách mạng vô sản sau này), Nguyễn Trường Tộ không chỉ thân cô thế cô (người tâm đắc hầu như duy nhất chỉ có Phan Thanh Giản) mà c̣n bị ruồng rẫy, bị nghi hoặc v́ là người công giáo.

Phải đến 23 năm sau ngày ông mất (1894), những ư tưởng rất có giá trị của ông mới được khơi dậy trong “Văn minh tân học sách” của phong trào Duy Tân. Và, hồn thiêng Nguyễn Trường Tộ đă cháy bùng trong bầu nhiệt huyết của Phan Bội Châu; đă thắp sáng lên tư tưởng canh tân đất nước của Phan Châu Trinh.

Năm 1925, vua Khải Định đă hạ chiếu truy tặng Nguyễn Trường Tộ danh hiệu “Hàn lâm viện trực học sĩ”. Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đă cho dựng tượng và đài kỷ niệm Nguyễn Trường Tộ tại Sài G̣n và các tỉnh. “Ủy ban quốc gia Nguyễn Trường Tộ” cũng đă được thành lập. Ủy ban này về sau được đổi thành “Hội phát triển tinh thần Nguyễn Trường Tộ”.

Tinh thần Nguyễn Trường Tộ, nỗi ưu tư da diết của Nguyễn Trường Tộ phải chăng chất chứa trong hai câu thơ cuối của bài thơ “Phong cảnh Cần Giờ”:

“Như thử giang sơn thùy thị chủ?

Yếu tương t́nh sự vấn chi thiên”

( Đất nước sơn hà ai đấy chủ?

Biết đem tâm sự hỏi trời thôi! )

 
 
 

Hà Nội tháng 4 năm 2011,

 Nguyễn Thanh Giang

Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lư Máy bay

Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội

Điện thoại: (4) 35 534 370

Chú giải:

(1)Tám việc cần làm gấp” - ngày 15 tháng 11 năm 1867 

(2) “Nên mở cửa chứ không nên khép kín” - tháng 10-1871

(3) “Kế hoạch làm cho dân giầu nước mạnh” – 20 tháng 6 năm 1864

(4) “Bàn về những t́nh thế lớn trong thiên hạ” – 16 tháng 3 năm 1863  

(5) “Về việc chỉnh đốn quân đội và quốc pḥng” – 19 tháng 6 năm 1871

(6) “Bàn về quan hệ với người nước ngoài” -  5 tháng 4 năm 1871

(7) “Bàn về tự do tôn giáo” – 16 tháng 6 năm 1863

(8) “Mở rộng quan hệ với Pháp và các nước khác” - 7 tháng 4 năm 1871

(9) Về việc học thực dụng ” – 1 tháng 9 năm 1866

(10)  “Canh tân và mở rộng quan hệ ngoại giao“ – 15 tháng 9 năm 1871

 

 

 

 TỔ QUỐC

Độc Lập Tự Cường

 

Nhóm trí thức yêu nước Việt Nam trong và ngoài nước phối hợp thực hiện

 
 
  2  —  http://to-quoc
  3  —  http://to-quoc
 
 

S 109 . Ngày 15 04 2011

 

Mục Lục

 

  Thư ṭa soạn : Từ độc tài đảng trị đến độc tài cá nhân      Nguyễn Gia Kiểng : Làn sóng dân chủ thứ tư và những chế độ độc tài không ảo tưởng    Nguyễn Thanh Giang : Nguyễn Trường Tộ với những tiền đề dân chủ hóa Việt Nam    Nghiêm Văn Thạch :  Xin can quí vị - nhạt nhẽo quá !      Nguyễn Thượng Long : Những câu chuyện ghi được trước cổng phiên toà xử Cù Huy Hà Vũ    Bùi Tín : Một phiên ṭa lập nhiều kỷ lục đen      Trần Mạnh Hảo : Thơ. Huy Cận ru con      Ngô Bảo Châu : Về sự sợ hăi    Việt Hoàng :  Cù Huy Hà Vũ, Vi Đức Hồi và con đường dang dở của Phan Châu Trinh      Ls Trần Lâm : Thư gửi Chánh án Ṭa án Nhân dân Tối cao và Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam     Phạm Toàn, Dương Hà : Chuyện ô nhục và chuyện cao cả      Trần Nhơn : Thơ. Cù Huy Hà Vũ bỗng hóa Anh Hùng ?       Hoàng Thanh Trúc : Thơ . Tám khúc đoạn trường      Đức Hồi :  Đố Mặt          

 
 

Báo Tổ Quốc Lưu Trữ :

60 - 100

Trang Nhà  :

  15-9-2006 Website Réalisé par Tổ-Quốc  

toquocmagazine@yahoo.com