Và đề nghị: “Nay
xin chia những người giàu làm ba hạng, nhà hạng nhất đóng thuế mỗi năm một
trăm quan, hạng nh́ 50 quan, hạng ba 20 quan (1).
Cho đến hôm nay ta vẫn
c̣n lúng túng trong việc đánh thuế nhà, nhưng cách đây gần hai trăm năm
Nguyễn Trường Tộ đă đề xuất việc đánh thuế nhà những người giàu: “Các
nước phương Tây sở dĩ đủ dùng cho việc nước là nhờ đánh thuế nhà những
người giàu có và các cơ sở thương mại, thế mà dân không oán than v́ đó là
thứ thuế chính đáng. Nếu dân nghèo th́ chỉ bắt đóng góp một ít công tác
thôi. Đối với dân họ tùy theo giàu nghèo mà đóng thuế nhiều hay ít, làm
sao cho công việc nước được phân phối thích hợp với mọi người (1).
Ông chĩa mũi nhọn vào
người giàu không v́ kỳ thị, trái lại ông đă phản bác tư tưởng yếm thế “an
bần lạc đạo” đang ngự trị trong lớp người hủ nho thời ấy (an tâm trước
cảnh nghèo để vui với đạo). Khi tư bản Phương Tây tràn tới,
ai cũng nḥm nhỏ thấy “Phi thương bất phú”, nhưng họ lại vơ đóan “vi phú
bất nhân” (không buôn bán th́ không giàu. Nhưng đă làm giàu th́ không đạo
đức). Nguyễn Trường Tộ phản bác: “… có đủ cơm ăn, áo mặc rồi mới nói
đến chuyện vinh hay nhục mà muôn việc ở đời cơ bản là sự nuôi sống. Nếu
không đủ nuôi sống, bản thân c̣n không bảo tồn được nói ǵ đến chuyện khác
ngoài bản thân…Nếu bị cái nghèo đói thúc bách th́ lo kiếm sống cũng không
xong c̣n đâu mà bàn lễ nghĩa” (1),
“Tôi thiết nghĩ, trong ngũ phúc, phú đứng đầu, triệu dân trước
tiên lo ăn. Sách Luận ngữ nói, làm giàu có rồi mới giáo dục. Mọi việc trên
đời hễ việc ǵ có công dụng lớn th́ rất khó làm. Công việc của con người
không ǵ lớn hơn là làm ra của cải để nuôi sống” (1).
Phải chăng, đây chính là quan điềm triết học duy vật biện chứng. F. Engels
từng viết: “Marx là người đầu tiên đă
phát hiện ra quy luật phát triển của lịch sử loài người, nghĩa là t́m ra
cái sự thật giản đơn, trước hết con người cần phải ăn uống, mặc trước khi
có thể lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo” .
Nguyễn Trường Tộ sinh cùng thời với K. Marx (kém Marx 3
tuổi). Rất có thể lúc ấy ông chưa có điều kiện đọc Marx. Nếu vậy tức là
Việt Nam cũng từng xuất hiện đồng thời nhà triết học duy vật.
Người
nói: “Vi phú bất nhân”. Nguyễn Trường Tộ bảo: “Về tài lợi nếu như biết
khéo thu nhập th́ được nhiều mà không ai oán trách thu nhập ấy, đó là nền
tảng của nhân nghĩa”. (3)
Nhân nghhĩa ở chỗ, làm
giàu là để giảm bớt gánh nặng thuế khóa cho dân: “Nay
nói về việc nước, khi đă có đủ của cải rồi th́ lệnh trưng thu của cải
trong dân chúng để cung ứng cho việc nước sẽ ngày càng giảm bớt mà sự
nghiệp củng cố cho nước mạnh sẽ ngày càng tăng”. (3)
Làm giàu để nước giàu
mà dân cũng giàu: “Cái tôi gọi là làm cho có
nhiều của ở đây không có nghĩa là nói ḅn rút của dân để làm cho nước
giàu, mà là nhân nguồn lợi tự nhiên của trời đất để sinh ra của cải. Do đó
mà nước giàu mà dân cũng giàu”. (3)
- 2 -
Nguyễn Trường Tộ hết
sức chú ư đến việc thiết lập và giáo dục pháp luật. Trong lịch sử cận đại
Việt Nam có lẽ ông là người cổ súy mạnh mẽ nhất cho luật pháp. Ông kỳ vọng
khả năng bênh vực lẽ công bằng của luật pháp và cho rằng luật pháp là hiện
thân của đạo đức: “Nếu tận dụng cái lẽ công bằng ở trong luật mà xử sự
th́ mọi quyền, pháp đều là đạo đức. Có cái đức nào lớn hơn chí công vô tư
không? Chí công vô tư là đức trời. Trong luật cái ǵ cũng công bằng hợp
với đức trời, như vậy mà không đáng gọi là đạo đức tinh vi sao? Chỉ sợ con
người không tận dụng luật mà thôi. Nếu tận dụng cũng đủ trọn vẹn đạo làm
người rồi, bất tất phải đi t́m cái ǵ khác”. (1)
Bây giờ đọc những điều
này thấy như là xưa cũ, như là đương nhiên lắm rồi. Thế mà, tôi nhớ, cho
đến thập kỷ 60 của thế kỷ 20 mà báo Nhân Dân của ĐCSVN c̣n đăng bài của CB
(tức Hồ chủ tịch) trong mục “Mỹ quốc là nước xấu” phàn nàn rằng nước Mỹ
quá xấu v́ có quá nhiều đạo luật, tới tận trên ba vạn đạo luật. (Cả một
giai đoạn lịch sử dài các nhà lănh đạo Cộng sản lấy chuyên chính vô sản
thay cho pháp trị! Khốn khổ thay, măi cho đến bây giờ cái hơi hướng ấy vẫn
c̣n ám ảnh, đầy đọa xă hội ta!)
Nguyễn Trường Tộ khẳng
định luật pháp càng chặt chẽ, số điều luật càng nhiều, càng tỷ mỷ và cụ
thể th́ con người càng được tự do, chứ không phải ngược lại: “Các
nước phương Tây lập pháp rất chặt chẽ thế mà lại rộng răi. Bởi v́ tất cả
đều có luật pháp không thể gian dối được, cho nên người ta không gian dối,
cũng không có ư nghĩ muốn gian dối. Họ sống yên ổn trong luật pháp, không
cảm thấy bị luật pháp ràng buộc, nên tựa hồ như luật pháp ấy rộng răi. C̣n
ta cũng lập pháp mà không ngăn chặn nổi tệ đoan là v́ luật pháp nước ta
chưa chặt chẽ, c̣n sơ hở để tệ đoan sinh ra. Họ cũng người, cũng nước,
cũng dân, sao luật pháp thi hành được c̣n ta th́ không?” (1)
Hăy xem: “các nước
Phương Tây chưa bao giờ có chuyện băi tô giảm thuế mà t́nh gắn bó giữa dân
với nước thân thiết khác hẳn t́nh trạng nước ta biết mấy (Điều này tôi đă
tŕnh bày trong tập “Ngôi vua là quư chức quan là trọng” ). Bởi v́ họ có
thể theo đạo trời làm đúng lẽ tài bồi chở che, xử sự hợp lư. Cho nên luật
pháp tuy nặng nề tựa hồ vô t́nh mà lại rất có t́nh (1).
Luật pháp dung hợp lư
t́nh và ngăn trở t́nh trạng không thấu t́nh, cũng chẳng đạt lư: “Nay
nếu Triều đ́nh không chỉnh đốn lại th́ kẻ sống trong pháp luật ít, kẻ
ngoài pháp luật nhiều. Quan trên quư hồ nắm lư lại có nhiều tư vị nên
không thể hết lư. Dưới dân quư hồ ở t́nh lại có nhiều gian dối không thể
hết t́nh. T́nh lư không thông làm sao xây dựng đất nước tốt đẹp được?
“ (1).
Nguyễn Trường Tộ đề
nghị thành lập khoa luật để phổ cập giáo dục luật học: “Bất
luận quan hay dân, mọi người đều phải học luật nước và những luật mới bổ
sung thêm từ Gia Long đến nay. Ai giỏi luật sẽ được làm quan. V́ luật bao
gồm cả kỷ cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia, trong đó tam cương ngũ
thường cho đến việc hành chánh của 6 Bộ đều đầy đủ. Quan dùng luật để trị,
dân theo luật mà giữ ǵn. Bất cứ một h́nh phạt nào trong nước đều không
vượt ra ngoài luật” (1).
Cách đây gần hai thế
kỷ mà tư tưởng pháp trị của Nguyễn Trường Tộ rơ ràng tiên tiến hơn chúng
ta ngày nay: “Phàm những tội ngũ h́nh đều do các vị này xử. Vua cũng
không được đoán phạt một người nào theo ư ḿnh mà không có chữ kư của các
quan trong Bộ ấy. Làm thế là để cho dân chúng thấy rơ đạo công bằng. Vả
lại vua không dự vào những việc ngũ h́nh để tỏ đạo nhân ái. Như chế độ
xưa, vua có “tam hào” (3 lần tha). Bởi v́ nếu có tội phải giết th́ đó là
quốc dân giết ” (1).
Cha ông đă dạy thế mà
sao ngày nay, những vụ án liên can đến quan chức của Đảng, những vụ án
chính trị, và ngay cả một số vụ án tập đoàn kinh tế lớn đều phải xử theo
sự chỉ đạo của Đảng!
|
“Phàm có vạn thứ không
giống nhau th́ gọi là giàu, không cái ǵ không chứa đựng được hết gọi là
lớn, chồng chất thành đống nhiều lớp mà không chống chọi nhau gọi là khéo,
nhiều thế lực khác nhau, nhiều tính t́nh khác nhau mà hợp được làm một để
sử dụng gọi là giỏi. Cho nên tạo vật nặn đúc ra không đồng một h́nh dạng,
một khuôn khổ, một ngôi vị, một xứ sở mà sinh ra vô số h́nh thái khác
nhau, phương hướng khác nhau để nhiếp trị. Thế mới thấy được cái giàu lớn
khéo giỏi của tạo vật. Sở dĩ thượng đế chế trị đại địa cũng như con người
ta lập các tôn giáo riêng, không bắt ép cái này phải nhập vào cái kia là
v́ có thâm ư trong đó” (7).
“Trộm nghĩ rằng cái
đức lớn của trời đất là sự sống. Sống là ǵ? Là làm cho muôn vật đều được
bảo toàn thiên tính của nó. V́ vậy mà trên trời có sao sáng mây đẹp th́
cũng có gió lớn mưa to; dưới đất có lúa tươi thóc tốt th́ cũng có cỏ xấu
sâu độc. Tuy tốt xấu khác nhau nhưng đều được sinh nở không cái nào bị
hại. Như vậy mới sáng tỏ cái đại toàn của trời đất. Chứ cái ǵ đẹp th́ tô
bồi, cái ǵ xấu th́ dẹp bỏ, cái ǵ hay th́ che chở, cái ǵ dở th́ hủy hoại
th́ không làm sao thấy được cái vĩ đại, cái kỳ diệu của tạo vật. V́ sao
lại nói như vậy? Bởi v́ nếu trên đời này có ngọt mà không có đắng, người
ta sẽ không biết vị ngọt là đáng yêu; có ấm mà không có lạnh, người ta sẽ
không biết được cái thích thú của sự ấm áp; có trắng mà không có đen,
trắng không thể tự một ḿnh phô bày cái đẹp được; có hoa mà không có gai,
hoa cũng không thể một ḿnh tốt tươi được. Cho nên trời đất không v́ tốt
xấu mà phân biệt mưa sương, không v́ văn minh dă man mà phân biệt sự che
chở. Muôn vật sống chung đụng với nhau nhưng mỗi vật đều thuận theo tính
của nó, hợp với cái dụng của nó, theo đường hướng của nó, đều tự thích
nghi, thành hoại thông với nhau, tán mạn đặc thù đều qui về một mối, không
bỏ một vật nào cũng không riêng tác thành cho một vật nào cả. Sở dĩ trời
đất vĩ đại là v́ thế. Tại sao riêng loài người lại không như thế? (7)
“Mọi vật sinh ra
trên đời, vật ǵ cũng có phần thụ hưởng và phần cống hiến của nó. Chưa
từng có một vật nào tồn tại một ḿnh không có quan hệ dính dáng vào đâu cả”. (1)
“Các nước khác nhau
rất xa về ngôn ngữ, phong tục và sự ưa chuộng, nhưng thượng đế cũng lấy
một lẽ mà đối chung cả vạn vật khiến tất cả đều thuận theo trật tự, đều
thỏa ư nguyện, không bắt tất cả phải giống hệt nhau. Có thế mới sáng tỏ
cái tài năng lớn, cái uy quyền trọng và cái độ lượng rộng răi ”. (4 )
Những triết luận trên
cho thấy Nguyễn Trường Tộ nhân bản hơn, bao dung hơn, bác ái hơn Karl Marx
nhiều. Nếu Trần Phú lĩnh hội tư tưởng này chứ không phải là của kẻ ngoại
bang bên trời Tây kia th́ đâu đến nỗi chủ trương quá chừng tàn bạo, phản
động: “Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Sau này Polpot Yangxary
cũng đă v́ ăn phải cái bả ông Tây đó mà suưt hủy diệt cả dân tộc ḿnh!
Quán triệt thực tiễn
đa nguyên, với tư duy biện chứng, Nguyễn Trường Tộ nh́n nhận tính thống
nhất trong đối lập: “Tôi trộm nghe rằng: Có thông
hiểu t́nh h́nh thiên hạ, mới làm thành việc trong thiên hạ. Thông hiểu là
thế nào? Nghĩa là đem tính t́nh của ḿnh mà suy ra tính t́nh của người tức
là biết được thiên hạ. Trong thiên hạ tuy ngôn ngữ phong tục khác nhau
nhưng ai cũng đều có tính chất như nhau. Như vậy chỉ cần suy bụng ta ra
bụng người th́ có thể biết Đông Tây bốn biển đều như thế cả. Thế giới năm
châu đều có tính chất như nhau”. (6)
Xin được kể lại chuyện
sau đây để thấy tư duy Nguyễn Trường Tộ không chỉ tiên tiến so với người
đương thời, mà ngay cả với mấy vị “vua” ngày nay:
Cho đến năm 1998, khi
xuất hiện bản tiểu luận “ Nhân quyền – Khát vọng ngàn đời ” của tôi – bài
viết công khai đầu tiên ở trong nước xác định tính phổ quát của Nhân quyền
và khẳng định “Nhân quyền cao hơn chủ quyền” - th́ một sỹ quan cao cấp
ngành công an đă đến nhà khuyên tôi nên thận trọng. Anh ta thông báo cho
tôi: “Tổng Bí thư Đỗ Mười nổi cơn thịnh nộ, đă ra lệnh bắt giam anh ngay,
nhưng bọn tôi xin hoăn để anh ở nhà ăn Tết đă” (Viên sỹ quan này vốn là
học tṛ của tôi. Tuy vậy tháng 3 năm 1999 tôi vẫn bị tống giam thật).
Và, đây nữa, Nguyễn
Trường Tộ chí lư biết bao: “… có muôn thứ bất đồng mới gọi là phong
phú, không ǵ không thâu chứa hết mới gọi là vĩ đại, quy tụ chất chứa
nhiều thứ mà không trái chống nhau mới gọi là tinh xảo, nhiều thế lực khác
nhau mà tập hợp được thành một công dụng mới gọi là kỳ diệu”. (7)
Vâng, đúng vậy. Đây
không phải luận điệu “diễn biến ḥa b́nh” mà là thánh ư của cha ông ta.
Rơ ràng Người dạy: có đa nguyên đa đảng th́ đất nước mới trở nên “vĩ
đại”, “tinh xảo”, “kỳ diệu” được.
Chắc chắn không phải
như lời ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Việt Nam chưa cần đa nguyên đa
đảng ”. Càng hoàn toàn không phải như ông tân trưởng ban Tuyên Giáo TW
Đảng Đinh Thế Huynh: “Việt Nam không cần đa nguyên đa đảng!”
- 5 -
Trên cơ sở coi trọng
sự bất đồng, Nguyễn Trường Tộ rất khuyến khích tự do ngôn luận.
Một mặt, ông yêu cầu
nhà nước: "Điều thẳng lẽ cong đều công bố cho
thiên hạ, việc sai đúng phải cho mọi người bàn luận, không dám tự ḿnh che
dấu bào chữa cho cái xấu”. (8)
Mặt khác:
“Nay xin Triều đ́nh đặt ra nhiều đề mục giao về cho các quan địa phương
truyền hỏi bất kỳ người nào, bất luận lương hay giáo, ai t́m được thực lư,
thực sự th́ theo đầu đề viết thành bài nạp lên. Hàng tháng các quyển ấy
được đưa về Kinh một lần để khảo duyệt. Bất kỳ quyển nào giúp ích cho việc
cần gấp th́ được ban thưởng và khuyến khích, rồi sức cho người ấy y theo
quyển mà thi hành. Nếu việc làm phù hợp với lời nói và có ích cho việc
công của nước nhà th́ chiếu theo khoa mà bổ dụng. Nếu như có ích cho việc
tư trong dân gian th́ được cấp bằng để tự chế tạo ra mà phát hành. Nếu như
quan địa phương có ư kỳ thị người nào mà giấu bài đi thi th́ người ấy được
phép lên tận Kinh tố cáo”. (8)
Và: “Xin cho các
trường quốc học, tỉnh học, các trường tư và các bài thi Hương thi Hội đều
chú trọng vào t́nh h́nh hiện tại, như luật lịch, binh quyền, các chính sự
về công h́nh lại lễ, tất cả đều được nói thẳng, không giấu giếm, có cái ǵ
tệ hại, có cái ǵ hay ho, cái ǵ nên để lại, cái ǵ cần thay đi, những cái
cần thiết trước mắt, những cái có thể phân tích tỉ mỉ xác đúng hợp thời,
th́ được coi là trúng cách, c̣n những chuyện cũ th́ chỉ là thứ yếu”.
(8)
Không chỉ xin cho dân
được tự do ngôn luận, Nguyễn Trường Tộ c̣n xin được mở kinh tế thị trường:
“Xin cho những nhà buôn trong dân gian biết góp vốn lập hăng buôn mà
tiền vốn đến 100 vạn, hiện có xác thực th́ ban thưởng cho họ. Do góp vốn
hay là vốn riêng của một nhà đóng được thuyền lớn hay là mua được thuyền
th́ bất luận kiểu loại ǵ mà có thể đi sang Đại Thanh hoặc ra nước ngoài
buôn bán cũng ban thưởng cho họ ”.(9)
Xin mở kinh tế thị
trường, lại xin thiết lập xă hội dân sự: “Xin cho trong dân gian những
ai lập các hội cứu tế như các loại hội cứu hỏa, hội bảo hiểm thuyền buôn,
hội khơi cảng thu thuế, hội thay nhà nước sửa chữa xây dựng cầu cống đường
sá nhà cửa, hoặc xuất tiền cho nhà nước vay để hàng năm lấy lợi, hoặc
quyên tiền cho nhà nước để lập ra các nhà nuôi trẻ mồ côi, nuôi người
nghèo khổ bệnh tật, và tự nguyện đứng ra quản lư những việc ấy, hoặc
khi nhà nước có việc khẩn cấp có thể cho vay tiền từ một vạn trở lên, đều
xét theo công lao sự việc lớn nhỏ mà phân biệt ban tước phẩm, hoặc tặng cờ
biển để khen ngợi ”. (9)
Tư tưởng duy vật và
biện chứng giúp Nguyễn Trường Tộ cho rằng muôn vật là đa đoan nhưng khả
tri chứ không phải bất khả tri. Ông viết: “Phàm nhà khoa học th́ bụng
phải bao hết những việc xưa nay, mắt trông khắp trời đất, tinh thần chu du
tận cơi xa xăm, tâm hồn thấu đến chỗ u huyền. Như vậy mới sáng suốt mà tâm
đắc được những ǵ người xưa không thể nói hết, mắt trông thấy hiện tượng
mà tâm trí bao trùm sự hiểu biết ngoài hiện tượng đó. Bởi v́ trời tuy cao,
đất tuy xa nhưng đều có sự thực chứ không ch́m vào hư vô…Tuy nói sự thực
nhưng nó cao dày, thâm thuư vô cùng, thấy như gần nhưng thực là xa, thấy
như nhỏ mà thực là lớn, thấy như tĩnh mà thực sự là động, thấy như nghịch
mà thực sự là thuận, thấy như không có nguyên tắc mà thực sự là có nguyên
tắc, thấy như trừu tượng mà thực sự là cụ thể”.
(4)
Tuy nhiên, nh́n vào
thực trạng học vấn nước nhà, ông không khỏi băn khoăn: “
Ngày nay chúng ta, lúc nhỏ th́ học văn, từ, thơ phú, lớn
lên ra làm th́ lại luật, lịch, binh, h́nh. Lúc nhỏ nào học Sơn Đông, Sơn
Tây mắt chưa từng thấy, lớn lên ra làm th́ đến Nam Kỳ, Bắc Kỳ. Lúc nhỏ học
nào thiên văn, địa lư, chính sự, phong tục tận bên Tàu (mà nay họ đă sửa
đổi khác hết rồi), lớn lên ra làm th́ dùng đến địa lư, thiên văn, chính
sự, phong tục của nước Nam, hoàn toàn khác hẳn. Lúc nhỏ học những lễ nhạc,
cách ăn uống, cư xử chiến đấu, doanh trại từ xa xưa của Tàu, lớn lên ra
làm th́ phải dùng lễ nhạc, cách chiến đấu, phép ăn ở theo quan dân nước ta
ngày nay. C̣n biết bao nhiêu những việc tương tự như thế, ṃn bút khô môi
cũng không kể hết. Xưa nay các nước trên thế giới chưa từng nước nào có
nền học thuật như vậy. Quả thật lạ đời! Tuy Nhật Bản, Cao Ly cũng đọc sách
Tàu nhưng chỉ để làm vui (9). “Ngày nay, cái mà nước ḿnh quư trọng là
Nho. Mà Nho th́ quư trọng ở nhiều văn chương, chữ nghĩa. Nếu như lấy cái
công phu bền bỉ dùi mài chữ nghĩa văn chương mà học lấy cái phong phú vô
vàn của tạo vật th́ sẽ được biết bao điều quư báu”. (9)
Ông nhận xét: “Trừ
Trung Quốc, Nhật Bản, Cao Ly và nước ta ra không có nước nào lấy văn
chương để chọn nhân tài. Đó cũng v́ thơ phú không đuổi được giặc, ngh́n
lời không được một kế sách, cho nên thay đổi đi mà lấy những điều tạo hóa
hành sự làm cái học thực dụng, v́ tạo vật là bậc thầy vĩ đại của muôn dân”.
(9)
Ông yêu cầu học phải “là
học những ǵ chưa biết để biết mà đem ra thực hành. Thực hành những ǵ?
Thực hành ở đâu? Đó là thực hành những ǵ thực tế trước mắt và c̣n để lại
lợi ích cho đời sau nữa”. (1)
Cho nên trong bản điều
trần “Về việc học thực dụng”, các môn học ông đề nghị mở thêm hàng đầu là:
“sơn lợi”: t́m kiếm khóang sản, “địa lợi”: khai khẩn và bón đất, “thủy
lợi”: tưới tiêu, chống úng chống hạn ….
Ông càng day dứt trước
việc dạy sử và học sử của ta: “Nước ta có những vị danh thần trong các
triều vua trước c̣n để lại danh thơm tiếng tốt, cũng như các danh thần và
các quan chức trong Triều đ́nh hiện nay mà việc làm của họ có thể làm
khuôn phép cho đời, tại sao không đem ra truyền tụng cho mọi người được
hứng khởi... mà cứ ngày đêm luôn miệng kêu réo những người từ bên Tàu,
chết đă mấy ngàn năm, như Tiêu Hà, Hàn Tín! Phải chăng chúng ta ngày nay
c̣n mang ơn họ? Phải chăng người thời nay không b́ kịp người thời xưa? Hay
muốn kêu cho họ sống lại? Như vậy mà cứ học cho đến bạc tóc, thật là quái
gở không thể nào hiểu nổi! ” (9)
Phải học sử kư của ta,
phải học địa lư của ta: “Nước ta trên cũng có
trời che, tức thiên văn, dưới cũng có đất chở, tức địa lư. Trong khoảng
trời đất, nước ta cũng là một đất nước tốt lành hẳn hoi, đâu phải một miền
phụ dung của Tàu”. (9)
Phải bỏ lối học tầm
chương trích cú của bọn hủ Nho để nh́n thẳng vào thực tế, dứt bỏ quá khứ
sai lầm, kiên quyết cách mạng tư duy: “Phàm kẻ có
trí trong thiên hạ là người không phải không có lầm lạc ban đầu, mà là
người biết thay đổi hành động, không phải không có sai lạc, nhưng biết sửa
điều sai thành đúng đắn, không xấu hổ v́ phải sửa đổi cái cũ, mà xấu hổ v́
không làm được điều ǵ mới, không nh́n lui dĩ văng, mà chuyên mưu việc
tương lai, không nghĩ đến bảo toàn tên tuổi riêng ḿnh, mà lo ích lợi
chung cho đất nước. Thế mới gọi là trí. Nếu sợ rằng trước kia chủ trương
sai lầm mà nay phải sửa đổi công việc th́ sẽ bị người chê cười nên xấu hổ
không làm, thế là không biết chính v́ không chịu thay đổi chủ trương mới
phải măi măi cam chịu sai lầm”. (1)
Thử hỏi Nguyễn Trường
Tộ đang nói với vua quan đương thời hay với chính các nhà lănh đạo nước ta
ngày nay? Chủ nghĩa Mác (của một ông Tây sốc nổi 30 tuổi) hết đẩy dân tộc
đến chỗ tự tàn sát nhau hàng vạn người để đấu tranh giai cấp; lại xua nhau
đi làm gă Đôngkisôt phất cờ hy sinh mấy triệu người “v́ ba ngàn triệu trên
đời”! (thơ Tố Hữu); chủ nghĩa xă hội đẩy đất nước xuống hố cả nút v́ đói
nghèo đằng đẵng … Thế mà sao măi vẫn cứ phải tôn thờ nó. Sao chân đă phải
rẽ bước đi làm kinh tế thị trường mà cổ cứ phải bẻ quặt lại định hướng xă
hội chủ nghĩa!?
- 6 -
Cuối thế kỷ 18, bị
truy kích, mặc dù cầu viện được vua Xiêm cấp cho năm vạn binh lính và 300
chiến thuyền, Nguyễn Ánh vẫn bị quân Tây Sơn đánh bật ra đảo Phú Quốc. Nhờ
dựa vào thế lực của Pháp, tháng 5 năm 1802 Nguyễn Ánh mới giành lại được
ngôi vua. Tiếp sau là Minh Mạng, Thiệu Trị. Tự Đức lên ngôi năm 1847. Năm
1858, Pháp đánh Đà Nẵng. Năm 1859, Pháp bỏ Đà Nẵng vào đánh Gia Định. Năm
1862, Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam bộ, Năm 1867, Pháp chiếm nốt 3 tỉnh
miền Tây Nam bộ. Trong bản điều trần “Canh tân và mở rộng quan hệ ngoại
giao” Nguyễn Trường Tộ đă khuyến cáo: “ Nay việc
khẩn cấp nhất của ta là trước hết phải giữ cho được cái ǵ chưa mất, c̣n
việc mưu thu hồi 6 tỉnh là việc sau. Muốn giữ cái chưa mất, th́ phải gấp
rút thừa cơ, mà canh tân chính là căn bản để mưu thu hồi và giữ ǵn. Nếu
không canh tân để tiến bộ, th́ dù có tạm thu hồi được, vá hôm nay mai lại
rách, rốt cuộc cũng không thể không có chuyện xảy ra. Nếu nhất luật canh
tân để tiến bộ th́ việc giữ không khó, mà việc mưu thu hồi không chóng th́
chày cũng có thể hy vọng được”. (10)
Ông khuyên nhà vua tạm
thời ḥa hoăn với Pháp, mở rộng quan hệ đối ngoại theo gương các lân bang:
“Lại xem Nhật Bản xưa vốn là lũ người lùn, từ trung diệp nhà Minh mới
bắt đầu giao hảo với Hà Lan, làm bạn với Bồ Đào Nha, kế đến mời Hợp Chúng
Quốc giúp vào việc nước, mở mắt nh́n rộng răi thiên hạ mới có chí hướng
lớn như vậy. Từ đó họ đóng tàu bè, luyện tập vơ bị, ưu tiên phát triển
thương nghiệp, công nghiệp, đất nước mỗi ngày một mạnh, được khen với mỹ
danh là Tiểu Tây và Trung Quốc khó bắt được Nhật Bản phải thần phục. Tuy
gần đây Anh, Pháp thường hay quấy nhiễu nhưng nhờ có nền nội trị ngoại
giao vững vàng mà họ không chịu hạ ḿnh. Như trước đây ba năm Anh, Pháp
đem binh thuyền đến toan đàn áp, nhưng nhờ có Hợp Chúng Quốc, Hà Lan phân
giải mà việc đă không xảy ra. Đó không phải là công dụng của sự giúp đỡ
của các nước hay sao? C̣n như ngày nay nước ấy có những kế hoạch giao
thiệp rộng răi, những mưu cơ tân tiến th́ đâu đâu người ta cũng đă nghe
thấy rơ ràng, gương ấy không xa, không cần phải nêu ra nữa”. (10)
Tiếc rằng khi Minh
Mạng lên ngôi, về đối ngoại, nhà Nguyễn đă thực hiện chính sách "Bế quan
tỏa cảng" c̣n nặng nề, cứng rắn hơn các triều đại trước. Về đối nội, ban
hành “Dụ cấm Đạo” (năm 1825) và "Chiếu chỉ sát đạo" (năm 1833).
Bằng những lời thuyết
giáo vắt từ trong tim, Nguyễn Trường Tộ đă ra sức can ngăn triều đ́nh,
thiết tha kêu gọi ḥa hợp, ḥa giải dân tộc: “Giáo dân cũng là người
trong nước, đều là người cả, cũng là dân của trời, sự ăn ở có liên quan
nhau, vui buồn liên quan nhau. Lẽ nào bên này động mà bên kia lại yên được
sao? Một nước ví như một thân thể. Một chỗ bị đau th́ toàn thân cũng không
yên. Một cục thịt thừa, một ngón tay đeo thật hết sức vô dụng thế mà cắt
bỏ đi th́ đau, huống chi là tay chân hữu dụng! Trời đất đối với các hành
tinh, một nước đối với dân chúng, sự liên quan lệ thuộc duy tŕ cũng một
lẽ như nhau. Nếu trên trời có một hành tinh bị động, các hành tinh khác
cũng nhân đó mà có chút biến đổi, huống chi dân là gốc của một nước, dân
bị tao động lẽ nào nước không sinh họa loạn?… Không thấy thượng đế là chúa
tể cai trị các nước cũng như vua là chúa tể trị v́ một nước đó sao? Trong
một nước, tuy nhân dân có phân chia nhà cửa khác nhau, nhưng vua cũng chỉ
lấy một quyền mà thống trị dân chúng, lấy một trí mà liên kết muôn dân,
khiến dân t́nh đều được yên ổn, hành động tuy khác nhau nhưng đều lương
thiện, chí hướng khác nhau nhưng đều đáng quư cả. Như thế th́ chẳng những
không tổn hại về mặt chính trị mà c̣n cho thấy cái tài khéo trong việc trị
nước nữa”. (7)
“Xét ra đạo Công giáo
vào nước ta từ thời Lê. Trước tiên các giáo sĩ Bồ Đào Nha đến giảng đạo ở
tỉnh Hưng Yên, tiếp đến có các giáo sĩ người Pháp, người Y Pha Nho đến,
được nhiều người tin theo. Lúc bấy giờ giáo dân và những người trong ba
đạo (Phật, Lăo, Khổng) tuy tín ngưỡng khác nhau nhưng vẫn ân ái tiếp đón
nhau, lễ nghĩa đối đăi nhau, năng lui tới với nhau không có ǵ hiềm nghi,
đều là con dân của nước nhà mà thôi. Từ khi ban hành lệnh nghiêm cấm th́
mới sinh ra ghen ghét kỳ thị nhau, do ghen ghét kỳ thị nhau mới sinh ra
tội lệ. Từ đấy giáo dân bị phiền nhiễu đến nỗi phải lưu ly thất sở mà mắc
vào ṿng h́nh phạt. Nước vốn trong, có quấy lên mới bị đục, nếu ngừng th́
chốc lát sẽ trong trở lại”. (7)
Những lời da diết ấy
sao như vẫn c̣n như đang phải tấu lên sôi bỏng trong hiện trạng nước ta
hiện nay. Phải thấy rằng: “ Giáo dân cũng do tạo vật sinh dưỡng và đạo
giáo cũng do tạo vật bảo dưỡng huống chi giáo dân cũng là một thành phần
của nhân dân trong nước. Trong số đó, nếu có kẻ bội nghịch chẳng qua chỉ
là một phần ngh́n, phần trăm mà thôi… Bất kỳ trong đạo giáo nào, hễ ai
phản nghịch loạn thường đều là người đắc tội trong tôn giáo, cứ áp dụng
h́nh phạt không tha để cho tôn giáo được trong sạch. C̣n ai yên phận tuân
theo pháp luật th́ để cho họ tự nhiên, có ǵ hại đâu? Đồng hành mà không
nghịch nhau là được ”. (7)
*
Nh́n nhận lại Nguyễn
Trường Tộ, những nghiên cứu, đánh giá của hậu thế đều thán phục trí tuệ và
tâm huyết của một trong những v́ sao Khuê vằng vặc trong lịch sử dân tộc.
Tuy nhiên hầu hết tiếc nuối ông đă không thành công và so sánh ông kém hơn
Fukuzawa Yukichi – một nhà cải cách đồng thời đại ở Nhật Bản.
Một số cho rằng
Fukuzawa thành công v́ đă biết “làm cách mạng từ dưới lên” trong khi
Nguyễn Trường Tộ làm ngược lại. Đây là một đề tài lớn cần mở những cuộc
hội thảo khoa học nghiêm túc nhằm soi rọi cho công cuộc đấu tranh dân chủ
hóa đất nước hiện nay. Người viết bài này hy vọng sẽ có dịp được tham gia.
Điều cần suy xét là,
điều kiện xă hội và hoàn cảnh bản thân của Nguyễn Trường Tộ và Fukuzawa
rất khác nhau. Trong khi “Nhật
Bản xưa vốn là lũ người lùn, từ trung diệp nhà Minh mới bắt đầu giao hảo
với Hà Lan, làm bạn với Bồ Đào Nha, kế đến mời Hợp Chúng Quốc giúp vào
việc nước, mở mắt nh́n rộng răi thiên hạ mới có chí hướng lớn như vậy. Từ
đó họ đóng tàu bè, luyện tập vơ bị, ưu tiên phát triển thương nghiệp, công
nghiệp, đất nước mỗi ngày một mạnh, được khen với mỹ danh là Tiểu Tây và
Trung Quốc khó bắt được Nhật Bản phải thần phục” (10),
th́ vua quan nhà Nguyễn chỉ loay hoay
chống Pháp và chốt chặt cửa đất nước. So với mấy đời vua trước, Tự Đức
được xem là sáng suốt hơn đôi phần. Từ đầu năm 1866, thấy như
nhà vua bắt đầu để ư đến Nguyễn Trường Tộ, giao cho Nguyễn Trường Tộ đi
t́m mỏ than, rồi lại sai Nguyễn Trường Tộ cùng với Giám mục Gauthier đi
Pháp thuê thầy và mua sắm dụng cụ về định mở trường kỹ thuật theo phương
pháp Tây phương. Nhưng, do phản ứng của giới sĩ phu cổ hủ, nhà vua lại
chùn bước. Họ sợ ảnh hưởng của Tây phương và kỳ thị công giáo!
Giữa đám quần thần yêu
nước kiểu vơ biền (giống một số nhà cách mạng vô sản sau này), Nguyễn
Trường Tộ không chỉ thân cô thế cô (người tâm đắc hầu như duy nhất chỉ có
Phan Thanh Giản) mà c̣n bị ruồng rẫy, bị nghi hoặc v́ là người công giáo.
Phải đến 23 năm sau
ngày ông mất (1894), những ư tưởng rất có giá trị của ông mới được khơi
dậy trong “Văn minh tân học sách” của phong trào Duy Tân. Và, hồn thiêng
Nguyễn Trường Tộ đă cháy bùng trong bầu nhiệt huyết của Phan Bội Châu; đă
thắp sáng lên tư tưởng canh tân đất nước của Phan Châu Trinh.
Năm 1925, vua Khải
Định đă hạ chiếu truy tặng Nguyễn Trường Tộ danh hiệu “Hàn lâm viện trực
học sĩ”. Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đă cho dựng tượng và đài kỷ niệm Nguyễn
Trường Tộ tại Sài G̣n và các tỉnh. “Ủy ban quốc gia Nguyễn Trường Tộ” cũng
đă được thành lập. Ủy ban này về sau được đổi thành “Hội phát triển tinh
thần Nguyễn Trường Tộ”.
Tinh thần Nguyễn
Trường Tộ, nỗi ưu tư da diết của Nguyễn Trường Tộ phải chăng chất chứa
trong hai câu thơ cuối của bài thơ “Phong cảnh Cần Giờ”:
“Như thử giang sơn
thùy thị chủ?
Yếu tương t́nh sự vấn
chi thiên”
( Đất nước sơn hà ai
đấy chủ?
Biết đem tâm sự hỏi
trời thôi! ) |