T́nh trạng này đặt ra ba câu hỏi:
― Có đúng là
một làn sóng dân chủ mới, làn sóng dân chủ thứ tư, đă bắt đầu không?
― Nếu đúng,
liệu nó có thể tràn tới Việt Nam không?
― Và nếu có
th́ bao giờ?
Những chữ "nếu" chồng chất đó dĩ nhiên khiến nhiều
người lưỡng lự giữa hoài nghi và hy vọng, nhất là những người bi quan có
thể biện luận rằng các điều kiện địa lư, chính trị, lịch sử và văn hóa tại
các nước Ả Rập không giống Việt Nam. Chúng ta chỉ có thể trả lời những câu
hỏi trên -và đàng nào cũng chỉ với mức độ chính xác của khoa học xă hội,
nghĩa là không tuyệt đối- nếu biết nh́n xuyên qua các sự kiện cụ thể để
thấy bản chất của các biến cố. Nói rằng những ǵ xẩy ra tại các nước Bắc
Phi và Trung Đông cũng sẽ xẩy ra tại Việt Nam chỉ có lư nếu, một là, các
chế độ tại các nước này có chung một số đặc tính với chế độ cộng sản Việt
Nam và, hai là, chính các đặc tính này khiến chúng phải sụp đổ theo một
qui luật.
Cũng như trong khoa học tự nhiên các qui luật chỉ có
thể được phát hiện sau khi đă trừu tượng hóa các sự kiện, nghĩa là khảo
sát các sự kiện không phải như chúng xuất hiện trước con mắt chúng ta mà
như chúng được tiếp nhận bởi lư trí.
Điều chắc chắn là các nước Hồi Giáo Trung Đông và
Bắc Phi đang chuyển biến mạnh mẽ về dân chủ. Sự kiện quân đội c̣n đang cầm
quyền tại Tunisia và Ai Cập không có nghĩa là các nước này đă chỉ đổi một
tập đoàn quân phiệt lấy một tập đoàn quân phiệt khác; nếu như thế th́ các
chế độ Ben Ali và Mubarak đă không sụp đổ bởi v́ đây không phải là những
cuộc đảo chính. Quân đội đă có vai tṛ quyết định nhưng không khởi động
các biến cố. Quân đội cầm quyền trong giai đoạn chuyển tiếp chỉ v́ chưa có
những tổ chức dân chủ đủ mạnh. Các biến động cũng đă tràn qua mọi nước
trong vùng. Không phải chỉ có hai chế độ Ben Ali và Mubarak sụp đổ. Chế độ
quân phiệt Algeria, dù kiểm soát được t́nh thế, cũng đă phải cam kết những
thay đổi rất quan trọng trong chiều hướng dân chủ hoá. Tương tự như các
chế độ quân chủ Jordany và Maroc. Chế độ Al-Assad tại Syria, khép kín và
bạo ngược không kém chế độ quân phiệt Miến Điện, cũng đă phải tuyên bố băi
bỏ quân luật áp đặt từ 48 năm qua. Các chế độ Gaddafi và Saleh nếu sống
sót sau cơn sóng gió cũng sẽ rất suy giảm và sẽ phải chấp nhận những thỏa
hiệp quan trọng. Những nhượng bộ này mở cửa cho tự do ngôn luận và đối lập,
những điều mà không một chế độ độc tài nào chịu đựng nổi. Trên thực tế
chúng mở ra một giai đoạn chuyển tiếp và cho các chế độ độc tài một thời
gian ân huệ để chuẩn bị cho sự đào thải của chính ḿnh. Một tiến tŕnh đă
bắt đầu và sẽ chỉ hoàn tất khi tất cả các chế độ độc tài này đă bị đào
thải.
Thái độ của cộng đồng quốc tế cũng đă thay đổi một
cách quan trọng. Trước hết là các nước phương Tây. Cho tới nay họ rất ngại
đụng chạm tới các chế độ Hồi Giáo và v́ thế không dám làm áp lực dân chủ
và nhân quyền lên các nước này. Lư do là v́ kinh tế thế giới tùy thuộc
nặng nề vào nguồn dầu lửa tại Bắc Phi và Trung Đông và v́ các nước trong
vùng này đều độc tài như nhau, không thể đụng tới nước này mà không gây lo
sợ và hiềm khích nơi các nước khác. Cái giá phải trả là dung túng các chế
độ bạo ngược, với điều kiện là chúng thân phương Tây. Cố tổng thống Mỹ
Franklin Roosevelt đă từng tóm tắt chính sách đối ngoại này trong một câu
nói về nhà độc tài Somoza ở Nicaragua: "Hắn có thể là một thằng chó đẻ
nhưng hắn là thằng chó đẻ của chúng ta" (he may be a son of a bitch
but he is our son of a bitch). Nhưng dân trí và văn hóa tại các nước này
đă thay đổi rất nhiều, nguyên vọng dân chủ đă lên cao tới mức buộc Hoa Kỳ
và Châu Âu phải thay đổi chính sách và chủ động thúc đẩy tiến tŕnh dân
chủ để đừng là nạn nhân của một thay đổi đàng nào cũng sẽ tới. Thế đồng
minh với các chế độ độc tài tham nhũng ngày càng khiến nhân dân các nước Ả
Rập phẫn nộ với phương Tây và có thể bị lôi kéo bởi những tổ chức Hồi Giáo
quá khích mặc dù trong thâm tâm họ không ưa ǵ các tổ chức này. Đă thế
logic sống c̣n độc hại của các chế độ này c̣n được phơi bày qua trường hợp
tập đoàn quân phiệt Pakistan: muốn bắt chẹt buộc Hoa Kỳ yểm trợ ḿnh th́
phải có đe dọa khủng bố, và muốn có khủng bố th́ phải dung dưỡng khủng bố.
Hai đồng minh cột trụ của Hoa Kỳ tại Trung Đông, Ai Cập và Saudi Arabia,
cũng là hai nước sản xuất ra những tổ chức khủng bố tích cực nhất: Al
Qaeda, Huynh Đệ Hồi Giáo, Hamas, Tháng 9 Đen v.v. Nghị quyết 1973 ngày
17/03/2011 là một khúc quanh trong lịch sử bang giao quốc tế. Hoa Kỳ, Pháp
và Anh không đ̣i Liên Hiệp Quốc phải hành động mà chỉ xin phép Liên Hiệp
Quốc để được can thiệp bằng quân sự vào nội bộ một nước để giúp các lực
lương dân chủ chống lại một chế độ độc tài. NATO mặc nhiên trở thành quân
lực của dân chủ. Nga và Trung Quốc dù là những nước độc tài đă không dám
biểu quyết chống lại. Như thế phải hiểu là thế giới đă chín muồi cho một
chuyển động mà Hoa Kỳ và Châu Âu phải tiếp tay v́ chính quyền lợi của họ
trong khi các chế độ độc tài cũng không dám công khai chống lại. Chúng ta
có thể trả lời cho câu hỏi thứ nhất: đúng là có một làn sóng dân chủ mới.
“Thế giới đă
chín muồi cho một chuyển động mà Hoa Kỳ và Châu Âu phải tiếp tay v́ chính
quyền lợi của họ trong khi các chế độ độc tài cũng không dám công khai
chống lại.”
Trong một bài trước đây
(1) kẻ viết bài này đă nhắc lại là kể từ cuối thế kỷ 18, khi dân
chủ bắt đầu phát triển mạnh, đă có ba làn sóng dân chủ và chúng ta đang
chứng kiến sự khởi động của làn sóng dân chủ thứ tư. Các làn sóng dân chủ
đánh dấu những chặng đường của nhân loại trong cuộc hành tŕnh về tự do,
mỗi làn sóng san bằng một trở ngại mà mức độ tiến hóa của xă hội loài
người đă cho phép xóa bỏ, đồng thời đánh đổ một loại chế độ độc tài. Làn
sóng dân chủ thứ nhất, khởi đầu cuối thế kỷ 18 với cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ
và cuộc Cách Mạng Pháp đánh đổ các chế độ quân chủ thần quyền, bắt đầu
bằng các chế độ đặt nền tảng trên Thiên Chúa Giáo. Làn sóng dân chủ thứ
hai bùng lên cùng với Thế Chiến II đánh gục chủ nghĩa dân tộc sô vanh và
các chế độ lấy nó làm cứu cánh. Làn sóng dân chủ thứ ba xóa bỏ chủ nghĩa
cộng sản và chiến tranh lạnh. Nó bắt đầu bằng cách loại bỏ các chế độ độc
tài sống nhờ chiêu bài chống cộng, sau đó đánh sập chủ nghĩa cộng sản và
phong trào cộng sản thế giới.
Hiện tượng mà các biến cố tại Bắc Phi và Trung Đông
khởi động không thể coi là sự tiếp nối của làn sóng dân chủ thứ ba. Nó
nhắm đào thải một loại chế độ độc tài khác và kết quả sau cùng của nó là
dân chủ hóa toàn bộ các nước Hồi Giáo và các nước Đông Á. Đó là làn sóng
dân chủ thứ tư.
Một điểm nổi bật là từ sau khi bức tường Berlin sụp
đổ các chế độ độc tài đều trở thành giống nhau, dù xuất phát từ những
nguồn gốc khác nhau, dù là các chế độ cộng sản c̣n sót lại hay các chế độ
độc tài cánh hữu vẫn có từ trước: chúng đều không dựa trên một ư thức hệ
hay một lư tưởng nào cả, thậm chí không có ngay cả một ảo tưởng. Đây là
một điểm quan trọng cần được nhấn mạnh. Cho tới nay mỗi chế độ chính trị
đều nhân danh một ư thức hệ và hứa hẹn một tương lai. Các chế độ quân chủ
thần quyền nhân danh một thượng đế toàn năng, các chế độ cộng sản nhân
danh một tất yếu lịch sử và hứa hẹn một thế giới không c̣n bóc lột, các
chế độ sô vanh Đức, Ư và Nhật đề cao sự tinh hoa của dân tộc và hứa hẹn
vinh quang, các chế độ dân chủ nhân danh những giá trị nhân bản và hứa hẹn
tự do và giầu mạnh v.v. Phải nói ngay rằng chẳng có chế độ bạo ngược nào
có lư tưởng cả, nhưng ít nhất chúng c̣n buôn bán một ảo tưởng. Các chế độ
độc tài hậu cộng sản khác hẳn. Chúng không nhân danh ǵ cả và cũng không
hứa hẹn ǵ cả, dù là một ảo tưởng. Các lănh tụ của chúng không có cao vọng
làm anh hùng và đi vào lịch sử mà chỉ có một mục tiêu là vơ vét thật nhiều
và cầm quyền thật lâu.
Vai tṛ của ư thức hệ là tạo cho chế độ một lư do
hiện hữu và do đó một tính chính đáng để thuyết phục quần chúng. Thuyết
phục và khuất phục luôn luôn là đôi chân của mọi chế độ trong đó thuyết
phục là cốt lơi, bạo lực chỉ dùng đến để khuất phục những phần tử không
thể thuyết phục được. Các chế độ độc tài không phải không biết điều này -bằng
cớ là thỉnh thoảng chúng vẫn cố viện dẫn một cách gượng gạo nhàm chán kinh
Coran, chủ nghĩa Mác-Lênin- nhưng chúng cũng thừa biết là không thể thuyết
phục nên cuối cùng chúng vẫn chỉ là những chế độ một chân thuần túy dựa
trên đàn áp, với cứu cánh duy nhất là kéo dài.
Sự kiện các chế độ này không có một ư thức hệ nào
trước hết là hậu quả của tiến bộ của thế giới về mặt tư tưởng. Các chủ
nghĩa đă lỗi thời. Chỉ c̣n lại những giá trị dân chủ. Không c̣n một "triết
gia" nào dám bạo phổi đề xướng ra những ư thức hệ mà không lập tức trở
thành tṛ cười, trong khi các trùm độc tài -dù là Lenin, Stalin, Mao hay
Hitler, Mussolini- đều không có tư tưởng chính trị, họ chỉ vận dụng tư
tưởng của một triết gia tâm thần nào đó. V́ không có những Marx, Engels,
Hegel, Nietzsche, Schmitt… để chế tạo cho họ những chủ nghĩa nữa nên các
chế độ độc tài hậu cộng sản hoàn toàn trần trụi về mặt tư tưởng.
Hậu quả đầu tiên của sự trần trụi tư tưởng này là
đảng cầm quyền bị phân hóa và mất thực chất để chỉ c̣n là một hư cấu. Các
đảng RCD của Ben Ali và NDP cũa Mubarak đă lập tức tan biến ngay sau khi
họ bị hạ bệ mặc dù có hàng triệu đảng viên bởi v́ chúng chỉ là những hư
cấu. Cũng như đảng Cần Lao Nhân Vị của ông Ngô Đ́nh Nhu sau ngày
01-11-1963 và đảng Dân Chủ của ông Nguyễn Văn Thiệu sau ngày 30-4-1975.
Một chính đảng đúng nghĩa phải là sự thể hiện của một tư tưởng chính trị.
Không có tư tưởng chính trị th́ không thể có đảng. Chấm. Hy vọng có thể
lấy quyền lợi để gắn bó các đảng viên chỉ là một ảo tưởng ngây ngô.
Đến lượt nó sự kiện đảng cầm quyền chỉ c̣n là hư cấu
cũng tự động dẫn đến một số hậu quả khác.
Trước hết là sự h́nh thành chung quanh lănh tụ của
một kết hợp kiểu băng đảng của một nhóm người mà quyền lợi và sự sống c̣n
gắn liền với chế độ. Như một qui luật tự nhiên, thiểu số này phải ngày
càng nhỏ lại bởi v́ chỉ có như thế các phần chia mới đủ lớn để bảo đảm sự
trung thành. Thiểu số này như vậy sẽ ngày càng bị nhận diện, cô lập và thù
ghét. Sự thù ghét càng thêm sức mạnh nếu nó được tập trung vào một cá nhân
được coi là đầu sỏ và đă cầm quyền trong một thời gian dài, như các
trường hợp Ben Ali (Tunisia, 23 năm), Mubarak (Ai Cập, 30 năm), Gaddafi (Libya,
42 năm), Saleh (Yemen, 33 năm).
Kế tiếp là sự bần cùng hóa tất yếu của quần
chúng, kể cả trí thức. Một chế độ không có ǵ để thuyết phục mà chỉ thuần
túy dựa trên đàn áp chỉ có thể đứng vững nếu chính quyền có phương tiện
rất lớn trong khi quần chúng rất yếu, kể cả về mặt kinh tế, để không có
sức đề kháng. Tham nhũng và bóc lột v́ thế chỉ có thể gia tăng như một qui
luật nằm trong bản chất của chế độ, dù có thể là những người cầm quyền
không muốn. Kẻ viết bài này đă có dịp thăm viếng Tunisia và Ai Cập. Thực
tế đă quá rơ ràng. Tại Tunisia một giáo sư đại học t́nh nguyện làm hướng
dẫn viên du lịch với giá 10 Euro mỗi ngày. Tại Ai Cập t́nh h́nh c̣n tệ hơn,
một sinh viên ngoại ngữ nói thạo tiếng Pháp xin đi theo hướng dẫn và chấp
nhận "cho bao nhiêu cũng được"; trong thành phố Luxor, thành phố du lịch
nổi tiếng nhất Ai Câp với gần nửa triệu dân, ra khỏi khu giầu có với vài
chục biệt thự kín cổng cao tường là cả một thành phố bần cùng. Ngoài một
vài xe đạp và xe gắn máy, dân chúng chỉ đi bộ và ăn mặc lem luốc. Ngược
lại Ben Ali và Mubarak có hàng chục tỷ USD.
Sau cùng là sự xung đột không tránh khỏi giữa quân
đội và công an dẫn đến sự sụp đổ của chế độ. Các chế độ Ben Ali và Mubarak
chắc chắn đă không sụp đổ nếu vẫn được quân đội ủng hộ. Gaddafi, Saleh và
Al-Assad cũng sẽ không chao đảo nếu c̣n nắm vững được quân đội. Các biến
động tại các nước Bắc Phi và Trung Đông đều diễn ra theo một kịch bản
tương tự: nhân dân bất măn tới cực độ lại cảm thấy quân đội có triển vọng
đứng cùng phía với ḿnh nên xuống đường chống đối và được quân đội, hay
một phần của quân đội, hưởng ứng.
Xung đột giữa quân đội và công an không tránh khỏi
trước hết do hai mâu thuẫn lớn:
― một là
trong mọi chế độ quân đội bao giờ cũng thừa sức đánh tan công an, nhưng
trong các chế độ độc tài không chủ nghĩa thuần túy dựa trên đàn áp này
công an lại nắm đại bộ phận các quyền lợi vật chất do vai tṛ trực tiếp
khống chế xă hội; các biện pháp ve văn quân đội như cho thành lập các công
ty quân doanh, mua vũ khí hiện đại và gửi một số sĩ quan đi huấn luyện tại
nước ngoài chỉ có tác dụng xoa dịu rất giới hạn;
― hai là các
chế độ này làm nổi bật sự đối chọi giữa hai chức năng, một bên là quân đội
có vai tṛ bảo vệ đất nước, một bên là công an đàn áp dân chúng.
Nhưng c̣n một nguyên nhân "thực tiễn" khác cũng có
tầm quan trọng quyết định, đó là quân đội không có lănh đạo đúng nghĩa.
Một quân đội được lănh đạo đứng đắn luôn luôn phục tùng chính phủ nhưng
vấn đề của các chế độ độc tài không có lư tưởng là ở chỗ chúng không thể
lănh đạo quân đội một cách lành mạnh bởi v́ chính bản chất của chúng không
lành mạnh. Các bạo chúa v́ vậy phải đặt vào những vị trí lănh đạo quân sự
cao nhất những tướng lănh rất tồi dở, những người không thể có tham vọng
chính trị. Ben Ali, Mubarak, Gaddafi, Saleh đều đă làm như thế. Các tướng
lănh cầm đầu quân đội của họ đều là những người rất mờ nhạt. Trong chế độ
Việt Nam Cộng Ḥa trước đây Ngô Đ́nh Diệm và Nguyễn Văn Thiệu cũng chỉ tin
dùng những tướng lănh như Lê Văn Tỵ, Cao Văn Viên. Tuy nhiên như thế không
khác ǵ trao súng cho đứa trẻ khờ khạo và tại nan sau cùng thế nào rồi
cũng xẩy ra. Những tướng lănh không có bản lĩnh vừa không kiểm soát nổi
các sĩ quan dưới quyền vừa dễ bị lung lạc. Chính những tuưóng lănh từng
cúi rạp trước ông Ngô Đ́nh Diệm đă đảo chính sát hại ông; các tướng Ai Cập
từng là bộ hạ ngoan ngoăn của Mubarak đang giam giữ và truy tố ông.
Tóm lại các chế độ độc tài c̣n lại chắc chắn phải bị
đào thải. Chúng chỉ đàn áp chứ không có ǵ để thuyết phục và hứa hẹn,
trong hai chân phải có của một chế độ chính trị chúng chỉ có một. Chúng là
những chế độ què và không thể đứng lâu. Như một qui luật chúng ngày càng
co cụm lại và bị thù ghét, sau cùng bị lật đổ v́ áp lực của quần chúng với
sự đồng t́nh của quân đội. Không thể khác, các chế độ này thực ra là những
quái thai chính trị. Từ ngàn xưa mọi chính quyền độc đoán đều phải dựa
trên một tôn giáo hay một chủ nghĩa. Các chế độ độc tài hậu cộng sản đáng
lẽ không thể có, chúng đă chỉ tồn tại được nhờ một t́nh trạng không b́nh
thường của thế giới trong giai đoạn chuyển tiếp về một trật tự thế giới
mới. Nhưng thế giới đă chín muồi cho một chuyển động mới. Làn sóng dân chủ
thứ tư đă bắt đầu và chúng sẽ bị cuốn đi. Chúng ta có thể trả lời chắc
chắn cho câu hỏi thứ hai: làn sóng dân chủ thứ tư sẽ tràn tới Việt Nam.
“Các chế độ độc tài c̣n lại chắc chắn phải bị đào
thải. Chúng chỉ đàn áp chứ không có ǵ để thuyết phục và hứa hẹn, trong
hai chân phải có của một chế độ chính trị chúng chỉ có một.”
C̣n lại câu hỏi thứ ba: bao giờ?
Một thay đổi chế độ thường do áp lực phối hợp của
hai loại tác động từ bên trong và từ bên ngoài. Yếu tố bên ngoài trước hết
là do ảnh hưởng lây lan, hay hiệu ứng vết dầu loang. Những ǵ xẩy ra tại
Tunisia đă lan sang Ai Cập và sau đó sang mọi nước trong vùng do sự kiện
chúng vừa gợi hứng vừa cống hiến những kinh nghiệm đấu tranh. Nhiều người
dân chủ Việt Nam giờ này đang tự hỏi tại sao chúng ta lại không thể làm
những ǵ mà các dân tộc Bắc Phi và Trung Đông đă làm đồng thời cũng đang
suy nghĩ cách tận dụng các phương tiện truyền thông đại chúng như Facebook,
Twitter, điện thoại di động. Tuy nhiên hiệu ứng lây lan chỉ có ảnh hưởng
giới hạn, yếu tố bên ngoài có tác dụng lớn hơn là áp lực của dư luận thế
giới và của các cường quốc dân chủ. Những biến cố tại Libya và Côte
d'Ivoire đang mở ra một kỷ nguyên mới trong bang giao quốc tế, đó là sự
b́nh thường hóa những can thiệp từ bên ngoài để yểm trợ những đấu tranh
giành dân chủ trong ḷng các quốc gia. Chủ quyền quốc gia không c̣n là một
khái niệm bất di bất dịch, lănh thổ quốc gia không c̣n được coi là vùng tư
do lộng hành của những tập đoàn độc tài bạo ngược nữa. Trong trung hạn đó
là một tin mừng và một tiến bộ theo chiều hướng đúng. Nhưng điều quan
trọng đối với chúng ta là giai đoạn trước mắt, nghĩa là trong một hay hai
năm tới. Phải nói rằng trong ngắn hạn yếu tố quốc tế sẽ không thuận lợi.
Trung Đông và Bắc Phi có tầm quan trọng chiến lược quá lớn vừa do trữ
lượng dầu mỏ vừa do sự thích nghi cần thiết nhưng khó khăn của Hồi Giáo
với dân chủ cho nên vùng này sẽ lôi kéo mọi quan tâm của các nước dân chủ
trong một thời gian khá lâu. Đối với Việt Nam áp lực chính từ bên ngoài sẽ
là áp lực của dư luận thế giới và các tổ chức nhân quyền. Áp lực này quan
trọng -v́ khi sự chuyển hóa của các nước Hồi Giáo Bắc Phi và Trung Đông về
dân chủ đă giải quyết xong trên nguyên tắc, dù chưa xong trên thực tế, th́
thế giới sẽ nh́n những chế độ độc tài c̣n lại như Việt Nam và Trung Quốc
như những quái thai- nhưng cũng không thể có tác dụng quyết định. Yếu tố
quyết định sẽ chỉ có thể là yếu tố nội tại. Nói cách khác dân chủ đến sớm
hay muộn chủ yếu tùy thuộc người Việt Nam.
Về các yếu tố quốc nội, điều nghịch lư là trong khi
diễn biến của chính quyền cộng sản và quần chúng Việt Nam khá rơ ràng th́
phản ứng của trí thức Việt Nam vẫn c̣n là một dấu hỏi lớn. Quần chúng Việt
Nam đă rất chín muồi cho dân chủ, hơn hẳn quần chúng Tunisia và Ai Cập. Họ
muốn dân chủ và cũng dám khẳng định cộng khai là muốn dân chủ. Chính quyền
CSVN cũng tiến hóa đúng qui luật. Đại hội 11 vừa chứng tỏ đảng cộng sản
chỉ c̣n là một hư cấu. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ chỉ có quyền lực
h́nh thức, quyền lực thực sự sẽ ở trong tay thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, bộ
chính trị và ban bí thư không c̣n kiểm soát được chính phủ mà trái lại sẽ
bị chính phủ khống chế, trong khi chính phủ trở thành ban chấp hành của
một một nhóm người mà quyền lợi và sự sống c̣n gắn liền với ông Nguyễn Tấn
Dũng; đứng đầu quân đội là những tướng lănh mờ nhạt phục tùng ông Dũng.
Bất măn và phẫn nộ sau cùng đă có một đối tượng tập trung là ông Nguyễn
Tấn Dũng.
Ông Dũng không quan tâm tới chủ nghĩa, phương pháp
cai trị của ông chỉ giản dị là đàn áp và ông đang gia tăng đàn áp. Tất cả
diễn biến đúng bài bản. Chế độ cộng sản Việt Nam chắc chắn sẽ bị đào thải.
Nhưng bao giờ nó sẽ bị đào thải là một câu hỏi khó
trả lời bởi v́ c̣n một ẩn số quá lớn: cách ứng xử của trí thức Việt Nam.
Cuộc cách mạng nào cũng phải do trí thức chủ xướng và lănh đạo và trí thức
chỉ đảm nhiệm được vai tṛ của ḿnh nếu dũng cảm và sáng suốt. Dũng cảm để
dám chống lại thay v́ phục tùng sự thô bạo, sáng suốt để hiểu rằng phải có
tổ chức mới có sức mạnh.
Cho tới nay, trừ một vài ngoại lệ hiếm hoi, trí thức
Việt Nam đă thiếu cả dũng cảm lẫn sáng suốt. Đất nước ta như đoàn tầu mà
các toa đều đă sẵn sàng nhưng đầu tầu không chạy. Trí thức Việt Nam đi sau
thay v́ đi trước và dẫn đường cho quần chúng như trí thức các nước khác.
Chúng ta đă nói nhiều về di sản lịch sử và văn hóa. Đă đến lúc phải vượt
qua di sản đó. Chỉ cần trí thức Việt Nam ư thức được sự cần thiết phải
trút bỏ gánh nặng di sản là t́nh h́nh có thể thay đổi rất nhanh chóng.
 |